Tăng
cường hợp tác kêu gọi đầu tư với các thành phần kinh tế, đặc biệt là
trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, thủy điện, chế biến nông, lâm sản,
sản xuất vật liệu xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Xây dựng cơ cấu
kinh tế linh hoạt, đạt hiệu quả kinh tế cao, phát triển bền vững, rút
ngắn khoảng cách tiến tới bằng mức bình quân chung của cả nước về GDP/người,
cải thiện nâng cao rõ rệt đời sống nhân dân. Đồng thời xây dựng hệ
thống đô thị và các hành lang phát triển như: Pleiku – Mang Yang – An
Khê; Pleiku – Chư Prông - Đức Cơ; Pleiku – Chư Sê – Ayunpa – Krông Pa;
Pleiku - Biển Hồ - Yaly, trở thành những hạt nhân lan tỏa và thúc đẩy
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Phát triển
kinh tế gắn với hình thành cụm dân cư, các cụm kinh tế, các thị trấn,
thị tứ.
Phát
triển nông lâm nghiệp, nông thôn được ưu tiên hàng đầu, tạo nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến và nông sản hàng hoá xuất khẩu, đảm bảo cho
quá trình phát triển và nâng cao đời sống nhân dân. Tập trung sức phát
triển công nghiệp với các ngành trọng tâm là công nghiệp chế biến nông
lâm sản, thuỷ điện và vật liệu xây dựng.
Tiếp
tục đầu tư phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, trước hết là mạng lưới
giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ thương mại – du lịch, mạng
lưới điện, thuỷ lợi và cấp thoát nước đô thị để đáp ứng yêu cầu phát
triển nhanh của nền kinh tế.
Mục tiêu, Gia Lai hướng tới đó là tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững nhằm thu hẹp khoảng cách về GDP
bình quân đầu người so với mức tăng trưởng trung bình cả nước, nâng cao
chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy dịch
chuyển cơ cấu kinh tế. Dự kiến giai đoạn 2006-2010, GDP
đạt 13,5%; dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng
công nghiệp - xây dựng - dịch vụ. Đến năm 2010, nông lâm nghiệp chiếm
39%, công nghiệp - xây dựng 31,5%, dịch vụ 29,5%. Năm 2015 cơ cấu này sẽ
là 22%-43%-35%. GDP bình quân đầu người đạt 11 triệu đồng (theo giá hiện hành), gấp 2,14 lần năm 2005 và đến năm 2020 sẽ đạt 24 triệu đồng/người.
Mở
rộng và nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đến năm 2010 đạt 150 triệu USD và
350 triệu USD vào năm 2015. Đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ theo
hướng hiện đại, phù hợp với xu thế gia nhập WTO, đẩy nhanh tiến độ xây
dựng cơ sở hạ tầng Khu kinh tế cửa khẩu Lệ Thanh - Đức Cơ cũng như quy
hoạch các khu cụm công nghiệp, cụm du lịch…
Để
phát triển kinh tế, hội nhập thành công, Gia Lai đã tìm cho mình bước
đi riêng mang tính đột phá như: Xây dựng phát triển các KCN, khu kinh tế
cửa khẩu, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, chú trọng phát triển thu hút đầu
tư vào du lịch… Việc dịch chuyển cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
nông nghiệp hướng vào chất lượng đã giúp Gia Lai hình thành các vùng cây
công nghiệp chuyên canh như cà phê, tiêu, điều, cao su… đứng trong vị
trí hàng đầu của cả nước. Đây cũng là điều kiện quan trọng để Gia Lai
kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông lâm sản, góp phần phát triển
sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng cho kinh tế nông nghiệp.
Trong
không gian liên kết vùng, Chính phủ đã định hướng xây dựng Gia Lai -
Pleiku thành Ngã ba Đông Dương, có vị trí đặc biệt quan trọng trong Tam
giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia. Từ Pleiku có thể thông
thương sang các tỉnh Đông Bắc Campuchia và Thái Lan theo quốc lộ 78
(Campuchia) và mở về hướng Đông của Việt Nam nơi có cảng biển Quy Nhơn
tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Điều này sẽ trở thành hiện thực
khi Khu kinh tế cửa khẩu Lệ Thanh - Đức Cơ nhanh chóng hoàn thành và đi
vào hoạt động. Khu kinh tế cửa khẩu Lệ Thanh được Chính phủ cho phép
nâng cấp thành cửa khẩu quốc tế và trong giai đoạn 2007-2015 Gia Lai
cũng quyết tâm xây dựng phát triển toàn diện nơi đây trở thành khu đô
thị biên giới với chức năng là trung tâm giao lưu kinh tế với các tỉnh
duyên hải miền Trung.
Hy
vọng thời gian tới, với môi trường đầu tư thuận lợi, nhiều tiềm năng
Gia Lai đã và sẽ trở thành vùng đất hấp dẫn các nhà đầu tư trong và
ngoài nước, góp phần sớm đưa Gia Lai trở thành vùng kinh tế động lực
phát triển của khu vực kinh tế Tây Nguyên./.