I. THÔNG TIN CHUNG
Cơ quan chủ trì: Trung tâm công nghệ
sinh học trường Đại Học Tây Nguyên.
Họ tên chủ nhiệm đề tài: Thân Trọng Quang
Học hàm, học vị: BS. Chuyên khoa cấp I - ThS - TS. Ký sinh
trùng.
Chức
vụ hiện thời: Chủ nhiệm bộ môn Ký sinh trùng
Địa chỉ liên lạc:
Bộ môn Ký sinh trùng, khoa Y Dược trường Đại học Tây Nguyên 567 Lê Duẩn, TP.
Buôn Ma Thuột tỉnh Đak Lak.
Thời gian thực hiện đề tài, dự án: 2006-2008
Ngày nghiệm thu:
22/7/2008
Kết quả nghiệm thu:
Khá
II. TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1 Sự cần thiết phải
thực hiện đề tài
Đề tài: “Đánh giá một số biện pháp phòng
chống 3 loại giun truyền qua đất ở học sinh cấp tiểu học và THCS của 2 cộng
đồng dân tộc thiểu số Jrai và Bahnar, tỉnh Gia Lai” là thiết thực vì:
Nhiễm giun truyền qua đất (Soil-transmitted-helminth
infections) là một loại ký sinh trùng có 3 loại giun chủ yếu ở người, đó là
giun đũa, giun tóc và giun móc.
Đây là bệnh rất phổ biến, theo tổ chức Y tế Thế giới
ước tính mỗi năm trên toàn thế giới có 130 quốc gia và khoảng 2 tỷ người nhiễm
giun truyền qua đất, 135.000 người chết và 800 triệu học sinh bị nhiễm.
Hàng năm trên thế giới được ước tính về nhiễm giun đũa
ký sinh trong cơ thể người trung bình có thể chiếm khoảng 28.616 tấn gạo, 31,8
tấn thịt và mất 27.798.400 lít máu do giun móc, 1.461.460 lít máu do giun tóc
gây ra.
Ở Việt Nam tỷ lệ GTQĐ cao có liên quan chặt chẽ đến sự
đói nghèo, vệ sinh môi trường kém và dịch vụ y tế thiếu thốn. Toàn quốc có
khoảng 60 triệu người nhiễm giun đũa, 40 triệu người nhiễm giun tóc, 20 triệu
người nhiễm giun móc. Theo Viện Sốt rét - Ký sinh trùng- Côn trùng (SR-KST-CT)
Trung ương ước tính ở Việt Nam, cứ 10 người thì tới 7 - 8 người có mang giun,
sán trong bụng. Nguyên nhân do ký sinh trùng có trong rau là rất cao: 97,12%
(101 mẫu); trong đó, ấu trùng giun được phát hiện trên rau sống chiếm tỉ lệ cao
nhất (78,8%), trứng giun móc (25%); trứng giun đũa (23,1%). Có 4 loại rau phát
hiện nhiễm ký sinh trùng đến 100% là: Rau xà lách xoong, rau đắng, rau tần ô và
rau má; các loại rau còn lại có tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng là 92,3%.
Gia Lai là một tỉnh nằm ở phía Bắc Tây nguyên, có 2
vùng đông và tây Trường Sơn với khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, một năm
chia làm hai mùa rõ rệt đó là mùa mưa bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 10
và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ của tỉnh Gia Lai trung bình
hàng năm từ 210
đến 250C;
lượng mưa trung bình năm của tỉnh từ 2.200 - 2.500 mm; đặc điểm khí hậu, thổ
nhưỡng, những điều kiện vệ sinh môi trường kém ở trong dân cư nông thôn rất
thuận lợi cho GTQĐ phát triển ở ngoại cảnh và sự lây nhiễm giun.
Địa bàn tỉnh Gia Lai có hai dân tộc thiểu số Bahnar và
Jrai đây là dân tộc chiếm đại đa số sống lâu đời nhất của tỉnh Gia Lai.
Chúng tôi đã chọn trường học là đơn
vị để nghiên cứu vì:
- Học
sinh thường có tỷ lệ nhiễm GTQĐ rất cao.
- Học
sinh là tương lai của đất nước; vì sự phát triển toàn diện của học sinh.
- Tập
trung điều trị cho trẻ em tuổi học đường có thể làm giảm tỷ lệ, cường độ nhiễm
của số người còn lại trong cộng đồng mà không cần phải điều trị.
- Học
sinh có mặt tại trường nhiều ngày, học sinh phân bổ đều khắp buôn làng hơn.
- Các
chương trình Y tế thông qua nhà trường có khả năng lồng ghép tốt hơn, trường
học dễ dàng thực hiện chương trình giáo dục sức khỏe, với mục đích cố gắng thay
đổi tập quán không những một thế hệ mà còn có tác dụng lâu dài qua nhiều thế hệ
liên tiếp để giảm tác hại, thậm chí còn ngăn chặn sự lan tràn bệnh.
- Thực
hiện đề tài này sẽ làm giảm tỷ lệ nhiễm, giảm tác hại do giun ở học sinh bị
nhiễm, ngoài ra giảm số người thải mầm bệnh ra ngoài môi trường đất trong cộng
đồng.
- Bên
cạnh đó biết rõ kiến thức, thái độ và thực hành của học sinh dân tộc Bahnar và
Jrai ở nơi nghiên cứu; từ đó sẽ có cơ sở bổ sung thêm kiến thức, thái độ cho
học sinh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
của đề tài:
Thực hiện đề tài này với các mục
tiêu sau:
1.
Xác định tỷ lệ và cường độ nhiễm giun truyền qua
đất ở học sinh cấp Tiểu học và THCS xã Glar và xã Hà Bầu.
2.
Xác định một số nguyên nhân làm tăng tỷ lệ và
cường độ nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh dân tộc tại xã Glar và xã Hà Bầu.
3.
Đánh giá hiệu quả điều trị đặc hiệu và truyền thông
giáo dục sức khoẻ ở học sinh dân tộc tại xã Glar và xã Hà Bầu.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
3.1.
Đối tượng: Tỉnh Gia Lai hiện có 14
huyện, chúng tôi tiến hành chọn ngẫu nhiên một huyện đó là huyện Đăk Đoa. Tại
huyện Đăk Đoa có 16 xã, chọn ngẫu nhiên hai xã nghiên cứu đó là xã Hà Bầu và xã
Glar.
Xã Hà Bầu: Tổng
số dân 5.830 người, trong đó dân tộc Jrai có 5.326 khẩu, chiếm tỉ lệ 91,36 %,
còn lại các dân tộc khác chiếm tỉ lệ rất thấp 8,64 %, có 94 hộ có nhà tiêu hợp
vệ sinh (Kinh 478 người, Bahnar 15 và dân tộc khác 11 người). Học sinh tiểu học
770 em, trung học cơ sở 425 em; hiện tại hai trường này có nhà tiêu, nhưng đến
nay đã hỏng và không được sử dụng.
Xã Glar: Tổng dân
số 9.094 nhân khẩu, dân tộc Bahnar 8.684 người chiếm tỉ lệ 95,49 %, ngoài ra
các dân tộc khác chỉ chiếm 4,51 % (Kinh 378, Jrai 20, dân tộc khác 12 người),
chỉ có 165 hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh. Tại xã Glar có học sinh tiểu học 1.008
em và trung học cơ sở 647 em, hiện tại hai trường này có nhà tiêu, nhưng đến
nay đã hỏng và không được sử dụng.
3.2.
Phương pháp
- Nghiên cứu ngang mô tả về nhiễm giun truyền qua đất Đối
tượng nghiên cứu: Học sinh trong các trường đã chọn.
Tiêu chuẩn chọn:
+ Học sinh tiểu học của các lớp 1,
2, 3, 4 và học sinh trung học cơ sở từ lớp 6, 7, 8.
+ Học sinh không bị bệnh cấp hoặc
mạn tính.
+ Học sinh chưa dùng bất kỳ thuốc
tẩy giun nào trước đó 6 tháng.
+ Cha mẹ và học sinh đều đồng ý tham
gia nghiên cứu.
+ Là học sinh dân tộc bản địa.
Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Học sinh Tiểu học của lớp 5 và
học sinh Trung học cơ sở của lớp 9.
+ Học sinh đang bị bệnh cấp hoặc
mạn tính.
+ Học sinh đã dùng một loại thuốc
tẩy giun trước đó 6 tháng.
+ Cha mẹ và học sinh không đồng ý
tham gia nghiên cứu.
+ Không phải là học sinh bản địa.
Thiết kế nghiên cứu: Điều tra cắt ngang
mô tả.
Cỡ mẫu là 384
học sinh, để tránh sai số một số học sinh bỏ cuộc chúng tôi cộng thêm khoảng
5%, vậy cỡ mẫu là 400 học sinh. Tổng số học sinh cần xét nghiệm là: 400 học
sinh x 2 xã = 800 học sinh.
Kỹ thuật xét nghiệm: Xét nghiệm phân
theo kỹ thuật Kato-Katz của Tổ chức Y tế Thế giới.
Nghiên cứu can thiệp
- Nghiên cứu can thiệp bằng điều trị thuốc
xổ giun (mebendazole)
Đối tượng là học sinh.
Tiêu chuẩn chọn:
+ Học sinh tiểu học của các lớp 1,
2, 3, 4 và học sinh trung học cơ sở từ lớp 6, 7, 8.
+ Học sinh không bị bệnh cấp hoặc
mạn tính.
+ Học sinh chưa dùng bất kỳ thuốc
tẩy giun nào trước đó 6 tháng.
+ Cha mẹ và học sinh đều đồng ý
tham gia nghiên cứu.
+ Phải tham gia đến khi đề tài kết
thúc.
+ Học sinh dân tộc bản địa.
Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Học sinh Tiểu học của lớp 5 và
học sinh Trung học cơ sở của lớp 9.
+ Học sinh đang bị bệnh cấp hoặc
mạn tính.
+ Học sinh đã dùng một loại thuốc
tẩy giun trước đó 6 tháng.
+ Cha mẹ và học sinh không đồng ý
tham gia nghiên cứu.
+ Không tham gia đến khi đề tài kết
thúc.
+ Không phải học sinh bản địa.
Các bước tiến hành nghiên cứu:
+ Điều tra đánh giá trước can
thiệp;
+ Tiến hành can thiệp, điều trị hàng loạt cho học sinh
bằng Mebendazole 500mg liều duy nhất.
- Nghiên cứu can thiệp bằng tuyên truyền
phòng chống nhiễm giun
Thiết
kế nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu can thiệp.
Đối tượng:
Tất cả học sinh trường trung học cơ sở ở hai xã nghiên cứu. Học sinh được lập
danh sách và mời vào tham dự nghiên cứu sau khi được giải thích rõ mục đích của
đề tài. Những học sinh đồng ý sẽ được lập danh sách và phỏng vấn trực tiếp bằng
một bộ câu hỏi phỏng vấn về “Kiến thức - Thái độ - Thực hành phòng chống giun
truyền qua đất”. Phải đáp ứng các tiêu chí sau:
Tiêu chuẩn chọn:
+ Tất cả học sinh Trung học cơ sở
từ lớp 6, 7, 8;
+ Phải là học sinh chính thức.
+ Học sinh đồng ý tham gia nghiên
cứu.
+ Phải tham gia đến khi đề tài kết
thúc.
+ Học sinh bản địa.
Tiêu chuẩn loại trừ:
+ Tất cả học sinh Trung học cơ sở
của lớp 9.
+ Không phải là học sinh chính
thức.
+ Học sinh không đồng ý tham gia
nghiên cứu.
+ Không tham gia đến khi đề tài kết
thúc (như học sinh lớp 9).
+ Không phải học sinh bản địa.
Các bước tiến hành nghiên cứu can thiệp
+ Đánh giá trước khi can thiệp: Được phỏng vấn trực
tiếp bằng bộ phỏng vấn KAP, dạng đóng soạn sẵn.
+ Tiến hành can thiệp: Thực hiện truyền thông cho học
sinh bằng các buổi nói chuyện trực tiếp, truyền thông qua giáo viên chủ nhiệm,
truyền thông bằng tờ rơi, bằng poster, tham quan các công trình vệ sinh của
trường và buôn làng 3 đợt (10/2006;
03/2007 và 9/2007) + Đánh giá sau can thiệp: Tiến hành sau một năm bằng một
bộ câu hỏi phỏng vấn về “Kiến thức - Thái độ - Thực hành phòng chống giun
truyền qua đất” qua bộ câu hỏi dạng đóng soạn sẵn.
Nghiên cứu can thiệp về sử dụng nhà vệ sinh
của hai xã
Để có cơ sở chọn mỗi xã ra 20 hộ gia đình để làm nhà vệ
sinh mẫu. Sau khi điều tra thực trạng nhà vệ sinh của hộ gia đình, chúng tôi
tiến hành mời các chủ hộ gia đình cùng trưởng làng, cộng tác viên y tế làng,
cán bộ Y tế xã và UBND xã họp tại hội trường UBND xã để nghe giải thích rõ mục
đích của đề tài và lập danh sách các hộ làm nhà vệ sinh, với tiêu chí sau:
Tiêu chí chọn
+ Hộ gia đình thuộc dân tộc tại chỗ
địa bàn nghiên cứu.
+ Chủ hộ đồng ý tham gia xây dựng
nhà vệ sinh.
+ Chấp nhận che chắn xung quanh và
mái nhà vệ sinh phù hợp khả năng gia đình.
+ Đồng ý tham gia tuyên truyền về lợi ích, cách sử dụng
nhà vệ sinh cho người thân trong dòng họ và người hàng xóm.
Tiêu chí loại trừ
+ Hộ gia đình không thuộc dân tộc
tại chỗ ở địa bàn nghiên cứu,
+ Chủ hộ không đồng ý tham gia xây
dựng nhà vệ sinh
+ Gia đình không có khả năng làm che
chắn xung quanh và mái nhà vệ sinh.
+ Không chấp nhận tham gia tuyên truyền về lợi ích,
cách sử dụng nhà vệ sinh cho người thân trong dòng họ và người hàng xóm.
2.4. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
- Các
số liệu chỉ nhằm mục đích phục vụ cho nghiên cứu các kết quả nghiên cứu, ý kiến
đề xuất được sử dụng vào mục đích phục vụ sức khoẻ học sinh ngoài ra không cho
mục đích nào khác.
- Đối
tượng nghiên cứu được biết trước về mục đích yêu cầu của đề tài, sẵn sàng và tự
nguyện tham gia và hợp tác vào nghiên cứu. Những đối tượng từ chối không hợp
tác sẽ không đưa vào đối tượng nghiên cứu.
- Tất
cả học sinh nhiễm giun đều được điều trị đặc hiệu tẩy giun và tư vấn phòng
bệnh.
4. Kết quả nghiên cứu chính
4.1. Thực trạng tỷ lệ nhiễm giun và một số
yếu tố nguy cơ nhiễm giun
Tỷ lệ nhiễm ở học sinh nơi nghiên
cứu khá cao 77,86 %, trong đó tỷ lệ nhiễm giun
đũa chiếm cao nhất 60,70%, nhiễm giun
móc 30,47% và tỷ lệ thấp nhất là giun tóc chỉ có 2,86%, sự khác biệt về các
loại giun này có ý nghĩa thống kê, với p<0,05. Tỷ lệ đơn nhiễm là 61,82% và
đa nhiễm là 20,61%.
Bảng 3.1. Tình
hình nhiễm giun theo từng loại và từng cấp học (n=804)
Tỷ lệ nhiễm giun chung
ở học sinh cấp tiểu học (75,49%) và THCS (80,30%), tỷ lệ này không có sự khác
biệt, với p>0,05. Nhưng về tỷ lệ nhiễm giun đũa ở học sinh trường tiểu học
65,69% cao hơn học sinh trường THCS 55,56%, có sự khác biệt, với p<0,05. Tỷ
lệ nhiễm giun tóc ở học sinh tiểu học (1,23%) thấp hơn học sinh trung học cơ sở
(4,55%) có sự khác biệt, với p<0,05. Về tỷ lệ nhiễm giun móc học sinh THCS
(37,63%) cao hơn tỷ lệ nhiễm giun móc ở học sinh tiểu học (23,53%), sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Bảng 3.2. Tỷ lệ
nhiễm giun đũa, giun móc phân theo giới và dân tộc

Tỷ lệ nhiễm giun chung theo giới giữa học sinh nam dân
tộc Bahnar (88,02%) cao hơn so với
học sinh nam dân tộc Jrai (69,0%),
sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê, p<0,05. Nhưng tỷ lệ nhiễm giun chung
theo giới giữa học sinh nữ dân tộc Bahnar
(78,57%) so với học sinh nữ dân tộc Jrai
(76,24%) không có sự khác biệt, với p>0,05.
Một số yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ và
cường độ nhiễm giun truyền qua đất
Bảng 3.3. Thực
trạng sử dụng nhà tiêu ở 2 xã nghiên cứu

Nhận xét
- Tình
trạng xã Hà Bầu có 8,78% số hộ có nhà tiêu; trong đó chỉ có 3,9% hộ có nhà tiêu
hợp vệ sinh.
- Tại
xã Glar con số này lại thấp hơn, có 4,61% số hộ có nhà tiêu, nhưng số hộ gia
đình có nhà tiêu hợp vệ sinh là 2,4%.
- Mô
hình nhà tiêu hợp vệ sinh chủ yếu là nhà tiêu đào có ống thông hơi chiếm 95,40%
(83/87) và nhà tiêu thấm dội nước là 4,59% (4/87).
Bảng 3.4. Thực
trạng nhà tiêu và nước sinh hoạt ở 4 trường học nghiên cứu

Nhận xét
- Qua
khảo sát tại 4 trường có 1.712 học sinh với 53 lớp học đều không có nhà tiêu và
cũng không có nước rửa tay cho giáo viên và học sinh.
- Tất
cả các trường đều có nhà tiêu cho học sinh nhưng do:
Nhà tiêu đã xây dựng lâu, xuống cấp, không có kinh phí
để tu bổ lại, đến nay không thể dùng được nữa. Học sinh ở các trường học này
chưa quen đi vào nhà tiêu, chưa có ai chỉ dẫn các bước về cách sử dụng từng
loại nhà tiêu, do vậy đã làm một số nhà vệ sinh thấm dội bị nghẹt do que, giấy
vứt vào lỗ cầu. Nguồn nước cung cấp cho các nhà tiêu này không đầy đủ lúc có,
lúc không có nước do phụ thuộc nguồn nước từ giếng bơm.
4.2. Hiệu quả sau
truyền thông và điều trị.
Hạn chế được sự phát tán mầm bệnh qua sử
dụng nhà tiêu mẫu
- Số
hộ tham gia làm nhà tiêu mẫu ngày được tăng lên xã Hà Bầu sau can thiệp có thêm
50 nhà tiêu hợp vệ sinh (20 do đề tài thực hiện, còn 30 nhà tiêu do nhân dân tự
làm thêm). Xã Glar tăng thêm 82 nhà tiêu hợp vệ sinh (trong đó 20 là của đề tài
và 62 là do nhân tự làm nên).
- Trường
học được xây dựng một cụm nhà tiêu mẫu có chia phần (một Nam, một Nữ). Các nhà
tiêu được đưa vào sử dụng để làm giảm sự lây nhiễm tại trường và làm cơ sở cho
học sinh thực hành có thói quen về sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.
Nâng cao kiến thức - Thái độ - Thực hành của
học sinh sau 3 đợt truyền thông.
- Biết
đúng đường lây truyền của giun truyền qua đất có khá lên, đường ăn uống 40,25 -
47,5%; qua da 13,15 - 19,75%.
- Biết
về tác hại của giun triệu chứng đau bụng 61,75 - 75,5%, giảm trí nhớ, giảm khả
năng lao động, gây thiếu máu, trẻ chậm lớn vẫn còn hạn chế 42%.
- Học
sinh biết phòng tái nhiễm là uống thuốc tẩy giun định kỳ tăng lên 42 - 69% và
không đi cầu ra ngoài đất tăng lên không đáng kể 45 - 64%.
- Thái
độ coi bệnh giun là nguy hiểm tăng 60,44 - 94%, mỗi hộ gia đình phải có một nhà
vệ sinh có 29% tăng lên từ 73 - 87%.
- Thực
hành ăn mặc gọn gàng khi đến trường đã tăng từ 72,5 - 85%.
- Đi
dày dép sạch, đúng cỡ chân của từng em tăng lên 92,5 - 97,25%.
- Giữ
móng tay sạch và cắt ngắn đã cao hơn 76,75 - 93,5%.
Hiệu lực của Mebendazole liều duy nhất sau 3
đợt điều trị - Đối với giun đũa: Tỷ lệ sạch trứng 73,3% và giảm trứng
97,69%.
- Đối
với giun móc: Tỷ lệ sạch trứng 59,19% và giảm trứng 96,86%.
- Tác
dụng phụ của thuốc nhẹ, thoáng qua không cần can thiệp bằng y tế nên có thể
dùng rộng rãi ở cộng đồng.
5. Những kết quả đạt được đã được áp dụng vào
thực tiễn
5.1.
Tẩy giun hàng loạt định kỳ kèm bổ sung viên sắt
cho tất cả học sinh ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, định kỳ 6 tháng một
lần (đầu năm học vào tháng 9 và giữa học
kỳ 2, vào tháng 3) là rất phù hợp.
5.2.
Thuốc rẻ tiền và an toàn nhất là Mebendazole
500mg, một liều duy nhất, có sẵn trong nước.
5.3.
Tuyên truyền giáo dục sức khỏe cho toàn thể học
sinh biết được 3 loại chính đó là giun đũa, giun tóc, giun móc. Phòng nhiễm qua
đường ăn uống, qua đường da.
5.4.
Chống tái nhiễm là uống thuốc tẩy giun định kỳ,
rửa tay sạch sau khi chơi, sau đi cầu và trước khi ăn, đi dày hoặc dép ra đất.
5.5.
Mô hình nhà tiêu phù hợp cho cộng đồng người
đồng bào là “Nhà tiêu đào có ống thông hơi”.