VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở phía bắc Tây Nguyên trên độ
cao trung bình 700 - 800 m so với mực nước biển. Với diện tích 15.536,92
km²(theo quyết định số 272/QĐ-TTg ngày 27/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ), tỉnh
Gia Lai trải dài từ 12°58'20" đến 14°36'30" vĩ bắc, từ
107°27'23" đến 108°54'40" kinh đông. Phía bắc Gia Lai giáp tỉnh Kon
Tum, phía nam giáp tỉnh Đắk Lắk, phía tây giáp tỉnh Ratanakiri - Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 80,485km, phía đông giáp các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.
Khí hậu Gia Lai
có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao
nguyên, một năm có hai mùa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng
10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Vùng Tây Trường Sơn có lượng mưa
trung bình từ 2.200 đến 2.500 mm, vùng Đông Trường Sơn từ 1.200 đến 1.750 mm.
Nhiệt độ trung bình năm là 22-25ºC .
Đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã, thành phố: 17, gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và
14 huyện.
Đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn: 220, gồm 24 phường, 12
thị trấn và 184 xã.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Gia Lai nằm trên một phần của nền đá cổ rộng lớn, dày trên 4.000 m, thuộc
Địa khối Kon Tum. Cuối kỷ Nêogen sang kỷ Đệ Tứ (cách ngày nay khoảng 1,6 triệu
đến 0,7 triệu năm) các chuyển động tân kiến tạo làm vỏ trái đất nứt khá sâu,
khiến các núi lửa hoạt động mạnh, phun các lớp bazan phủ dày từ vài chục đến
500m. Dung nham núi lửa đã lấp đầy các hố trũng của bề mặt địa hình, tạo nên
cao nguyên rộng lớn và khá bằng phẳng.
Địa hình toàn tỉnh có hướng thấp dần từ bắc xuống nam, thoải dần từ đỉnh (là
trục quốc lộ 14) sang hai phía đông và tây với các đồi núi, cao nguyên và thung
lũng xen kẽ nhau khá phức tạp.
Núi ở Gia
Lai phần lớn nằm ở phía bắc, địa hình núi phân cách mạnh. Từ kông (đỉnh) Ka
King (cao 1761m) thuộc địa bàn huyện Kbang, chạy về hướng nam núi chia thành
hai hệ:
- Hệ thứ nhất (qua
đèo An Khê - thuộc dãy An Khê): chạy dọc phía đông của tỉnh tạo thành dải phân
cách tự nhiên giữa Gia Lai với các tỉnh ven biển miền Trung và thấp dần khi vào
vùng đồng bằng Ayun Pa, Kông Pa.
- Hệ thứ hai (qua đèo
Mang Yang): chia Gia Lai thành hai phần là Đông Trường Sơn và Tây Trường Sơn
với những đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, môi sinh khác biệt.
Ngoài hai hệ núi trên,
bề mặt các dạng địa hình khác của Gia Lai như các cao nguyên, những thung
lũng đồng bằng cũng đều rải rác có núi.
Cao nguyên là dạng
địa hình phổ biến và quan trọng của Gia Lai. Toàn tỉnh có hai cao nguyên:
- Cao nguyên Kon Hơnờng ở phía
Đong Trường Sơn, diện tích khoảng 1.250 km2, trải dài tư Nam huyện Kon Plông
(tỉnh Kon Tum) và chiếm gần trọn địa bàn huyện Kbang, độ cao từ 50 - 80 m, thấp
dần từ bắc xuống nam, độ dốc trung bình từ 8 - 120.
- Cao nguyên Pleiku có diện tích
4.550 km2 là một trong hai cao nguyên rộng lớn nhất Tây Nguyên, kéo dài từ Nam
thành phố Kon Tum xuống tận khối Chư Păh và từ đèo Mang Yang sang tận biên giới
Cam Pu Chia, đỉnh ở núi Hdrung (núi Hàm Rồng) cao 1.028 m, phía bắc và đông bắc
cao từ 750 - 800m về phía nam chỉ còn cao 400 m.
Các vùng trũng của Gia
Lai sớm được con người khai thác để sản xuất lương thực. Hầu hết các vùng trũng
nằm ở phía đông của tỉnh:
- Vùng trũng An Khê có
diện tích 1.312 Km2, kéo dài theo hướng đông bắc - tây nam. Phía bắc giáp cao
nguyên Kon Hơnờng, nam giáp vùng trũng Cheo Reo - Phú Túc và vùng núi thấp Chư
Trian, ranh giới phía đông và phía tây là hai hệ núi chạy qua đèo An Khê
và đèo Mang Yang.
- Vùng trũng Cheo Reo- Phú Túc nằm
trọn trong địa hào sông Ba với diện tích 1.474km2, tiếp nối với vùng
trũng An Khê và nằm về phía đông nam tỉnh, độ cao trung bình 180 - 200 m.
Đất đai tỉnh Gia
Lai có 26 loại đất, gồm 7 nhóm chính:
- Nhóm đất phù sa có diện tích
46.430 ha, chiếm 3% diện tích tự nhiên, phân bố ở nơi có địa hình bằng phẳng,
gần nguồn nước (sông suối lớn), tầng đất dày.
Đây là loại đất tốt, thích hợp cho việc trồng các loại rau, hoa màu, lương
thực.
- Nhóm đất xám có diện tích
364.806 ha, chiếm 23,55% diện tích tự nhiên, tập trung thành vùng dọc theo sông
Ba, sông Ayun ở tây nam huyện Chư Prông và các huyện, thị: An Khê, Đăk Pơ, Ayun
Pa, Ia Pa. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, dễ thoát nước, khả năng giữ chất dinh
dưỡng kém nên nghèo dinh dưỡng. Loại đất này thích hợp với những loại cây công
nghiệp ngắn ngày như mía, vừng, sắn, thuốc lá, đậu đỗ các loại hoặc trồng rừng
để giữ đất.
- Nhóm đất đen có tổng diện tích 27.870 ha, chiếm 1,8% diện tích tự nhiên,
phhân bố chủ yếu ở các huyện Mang Yang, Chư Prông, Chư Sê và Đức Cơ. Trên diện
tích này thích hợp cho việc trồng rừng, khôi phục thảm thực vật để bảo vệ đất.
- Nhóm đất đỏ vàng có diện tích
781.765 ha, chiếm 50,44% diện tích tự nhiên, tập trung ở các huyện trên cao
nguyên Pleiku và cao nguyên Kon Hơnờng, thích hợp cho việc trồng các cây công
nghiệp dài ngày như cà phê, chè, hồ tiêu, cao su và cây công nghiệp ngắn ngày,
hoa màu, lương thực.
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi
có diện tích 175.582 ha chiếm 11,35% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở vùng
núi phía bắc và đông bắc tỉnh, có độ cao từ 1000 m trở lên. Loại đất này chủ
yếu dành cho phát triển lâm nghiệp.
- Nhóm đất thung lũng dốc tụ có diện
tích 14.140 ha, chiếm 0,91% diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở độ cao từ 300
- 700 m, độ dốc từ 3 - 800, trên địa bàn các huyện Mang Yang, Chư Sê, vùng Ayun
Pa và thành phố Pleiku.
- Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá
có diện tích 113.423 ha, chiếm 7,32% diện tích tự nhiên, tập trung ở các huyện
thị: An Khê, Ayun Pa, Phú Thiện, Krông Pa. Nhóm đất này không có khả năng khai
thác để phất triển nông nghiệp, thích hợp cho việc trồng rừng bảo vệ đất.
Sông ngòi:Tài nguyên nước ở Gia Lai có tổng trữ lượng khoảng 23 tỉ m3
nước, phân bố trên các hệ thống sông chính là hệ thống sông Ba, hệ thống sông
Sê San.
- Hệ thống sông Ba: Sông Ba dài
304 km (dài thứ hai trên Tây Nguyên), bắt nguồn từ núi Ngok Rô ở độ cao 1.240 m
trên dãy Ngok Linh (tỉnh Kon Tum), chảy theo sườn phía đông của dãy Trường Sơn
qua các huyện thị Kbang, An Khê, Kông Chro, Ia Pa, Ayun Pa và Krông Pa của tỉnh
Gia Lai trước khi đổ về tỉnh Phú Yên ra biển. Các nhánh chính của sông Ba là
sông Ayun (hợp lưu với sông Ba tại Ayun Pa), sông Krông Năng (hợp lưu tại Nam
huyện Kông Pa) và sông Hinh.
- Hệ thống sông Sê San: Bắt nguồn từ
những đỉnh núi cao nhất của dãy Trường Sơn, núi Tiêu (1.988 m), Ngok Linh
(2.598 m), có hai nhánh lớn là sông Đăk Bla, Pôkô và một nhánh nhỏ là sông Sa
Thầy, chảy qua các huyện Đăk Đoa, Chư Păh, Ia Grai, Đức Cơ trước khi đỏ về Cam
Pu Chia.
Ngoài những hệ thống sông chính, Gia Lai còn có các nhánh sông Srê Pôk nhThuỷ
điện Sê San 3Aư Ia Đrăng, Ia Lôp đều bắt nguồn từ núi Hdrung chảy qua các huyện
Chư Sê, Chư Prông của tỉnh và nhiều sông, suối, hồ lớn nhỏ khác cung cấp nước
sinh hoạt cho người và nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống sông
suối chảy qua địa bàn còn là là nguồn thuỷ năng có trữ năng lý thuyết khoảng
10,5 - 11 tỷ MW; trữ năng kinh tế kỹ thuật 7,1 tỷ KW.
Rừng:Tỉnh Gia Lai có diện tích đất lâm nghiệp là 1.112.452,8 ha,
chiếm 72Voi Nhơn Hoà% tổng diện tích đất tự nhiên, có độ che phủ rừng là 47% và
là tỉnh có độ che phủ rừng cao thứ hai trong cả nước. Trong đó, diện tích đất
lâm nghiệp cho rừng đặc dụng là 61.364,6 ha (chiếm 5,5% diện tích đất lâm
nghiệp), diện tích đất lâm nghiệp cho rừng phòng hộ 277.613,5 ha (chiếm 23,5%
diện tích đất lâm nghiệp), diện tích đất lâm nghiệp cho rừng sản xuất là
773.447,7 ha (chiếm 69,5% diện tích đất lâm nghiệp).
Rừng Gia Lai có nhiều gỗ quý như trắc, hương, cẩm lai, hoàng
đàn..., nhiều lâm đặc sản dưới tán rừng như thổ phục linh, cốt toái, sa
nhân, mã tiền... và các loại cây cho dầu, nhựa...
Cùng với hệ thực vật, động vật rừng Gia Lai cũng rất phong phú và đa dạng cả vể
giống, loài và số lượng cá thể. Đặc biệt còn có nhiều loài thú quý hiếm như bò
tót, hổ, voi, sói đỏ, mèo gấm, gấu ngựa, vượn đen, voọc ngũ sắc... Các loại
chim hạc cổ trắng, công, trĩ sao, gà lôi vằn, gà tiền mặt đỏ. Đặc biệt, loài
khướu tai hung mới được phát hiện trong vườn quốc gia kông Kah King.
Khoáng sản: Gia Lai
có nhiều loại khoáng sản, nhưng trữ lượng nhiều hơn cả là nguyên vật liệu xây
dựng, bôxit, vàng và đá quý. Khoáng sản kim loại còn có sắt, kẽm,
asen và vofram. Khoáng sản phi kim loại có nhiều nhất là đá granit, đá vôi, đá
hoa, đất sét, cát và sạn sỏi.
Bô xít, đã phát hiện một mỏ và 4 điểm nằm ở vùng Kon Hà Nừng đã thăm dò và đánh
giá trữ lượng cấp C2 là 210,5 triệu tấn với hàm lượng A12O3: 33,76%- 51,75%;
SiO2: 14,04%. Ngoài ra còn có sắt, thiết, chì... nhưng với quy mô nhỏ chưa được
điều tra kỹ.
Vàng, phát hiện trên 73 điểm, trong đó có 66 điểm quặng hoá gốc và 6 điểm sa
khoáng, các vùng có triển vọng là Kông Chro, Ia Mơ, Krông Pa, Ayun
Pa.
Đá vôi, phát hiện được 6 điểm, điểm có triển vọng nhất là đá vôi Chư Sê, trữ
lượng khu B cấp C1 + C2 là 22 triệu tấn, đang được khai thác để phục vụ cho 02
nhà máy xi măng trên địa bàn tỉnh.
Khoáng sản làm vật liệu xây dựng khác như đá bazan ở đèo Chư Sê, Pleiku, Chư
Păh. Đá granit có trữ lượng 90,1 triệu m3.
Đất sét làm gạch ngói phân bổ rộng khắp toàn tỉnh, nhưng tập trung lớn ở Ayun
Pa, An Khê...
NGUỒN NHÂN LỰC
Dân số tỉnh Gia Lai có 1.227.400 người (số liệu thống kê năm 2009) bao gồm 34
cộng đồng dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, người Việt (Kinh) chiếm 52% dân số.
Còn lại là các dân tộc Jrai (33,5%), Bahnar (13,7%), Giẻ-triêng, Xơ-đăng, Thái,
Mường...Dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 53%; lao động đã qua đào tạo
chiếm trên 30% tổng số lao động xã hội. Tỷ lệ tăng dân số và lao động hàng năm
khá cao, giá nhân công rẻ nhưng rất cần tăng cường đào tạo về văn hóa và chuyên
môn kỹ thuật.
Nguồn: LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ TỈNH GIA LAI 1945 - 2005