Tư
cách một người cách mệnh
Tự
mình phải:
Cần kiệm.
Hoà mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút
nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không
kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng ham muốn về vật
chất.
Bí mật.
Đối
người phải:
Với từng người thì khoan
thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm
việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ
càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể.
VÌ
SAO PHẢI VIẾT SÁCH NÀY?
1.
Phàm làm việc gì cũngvậy, bất kỳ lớn bé, bất kỳ khó dễ, nếu không ra sức thì chắc
không thành công. Tục ngữ Tàu có câu: “Sư tử bắt thỏ tất dùng hết sức”. Sư tử mạnh
biết chừng nào, nếu bắt thỏ thì có khó gì, thế mà còn phải dùng hết sức, huống
gì làm việ to tát như việc giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại,
nếu không hết sức thì làm sao được.
2.
Lại nhiều người thấy khó thì ngã lòng, không hiểu rằng “nước chảy đá mòn” và “có công mài sắt có ngày nên kim”. Việc gì
khó cho mấy, quyết tâm làm thì chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng
tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi. Đời này làm chưa xong thì đời sau nối theo
làm thì phải xong.
3.
Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao
mà phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một
vai, vì sao phải làm ngay không nên người này ngồi chờ người khác. Có như thế mục
đích mới đồng; mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng; tâm
đã đồng, lại phải biết cách làm thì làm mới chóng.
4.
Lý luận và lịch sử cách mệnh có nhiều sách lắm. Pháp nó sợ, nên cấm chúng ta học,
cấm chúng ta xem, cho nên đồng bào ta đối với hai chữ cách mệnh còn lờ mờ lắm.
Có người biên chép đề xướng ra một chút lại làm một cách rất hồ đồ; hoặc xúi
dân bạo động mà không bày cách tổ chức; hoặc làm cho dân quen tính ỷ lại, mà
quên tính tự cường.
5. Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1)
Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc
chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người. (3) Xem lịch sử cách
mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng
bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?
6. Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có
người sẽ chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng! Đây nói việc gì thì nói rất giản
tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả.
Hơn
sáu mươi năm nay, đế quốc chủ nghĩa Pháp đạp trên đầu; hơn hai mươi triệu đồng
bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm chóng để cứu lấy giống nòi, mà
giờ đâu rãnh để vẽ vời trau chuốt!
Sách
này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi
thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh.
Văn
chương và hy vọng sách này chỉ ở trong 2 chữ: Cách mệnh! Cách mệnh! Cách mệnh!
II.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI, CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG, KẾT
CẤU CỦA TÁC PHẨM
1. Bối cảnh ra đời
Tác
phẩm Đường cách mệnh được chuẩn bị
vào những năm 1925-1926 và được xuất bản vào năm 1927. Đây là thời kỳ hoạt động
đầy sôi nổt và hiệu quả của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc).
Tại đây, Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước, thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên. Công việc đầu tiên Nguyễn Ái Quốc làm là mở các lớp đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ chức và hướng
dẫn lớp học. Thời gian từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức được
ba lớp đào tạo với tổng số 75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu
chính cho học viên nghiên cứu, trao đổi.
Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp
học tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
ở Á Đông tập hợp lại và xuất bản thành sách với tên gọi Đường cách mệnh. Sách có khổ 13 x 18cm, in trên giấy nến, kiểu chữ
viết thường.
2. Chủ đề tư tưởng
Tư
tưởng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm là giáo dục lý luận cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin, tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng trong nước và quốc tế, cuốn
sách đã trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng,
làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.
3. Kết cấu
Về
mặt hình thức: Ngoài lời đề tựa, cuốn sách được phân chia theo từng vấn đề, số
trang cũng được đánh theo từng vấn đề, không đánh liền cho cả cuốn sách. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung đề cập 15 vấn đề (1) Tư cách một người cách
mệnh; (2); Vì sao phải viết sách này? (3) Cách mệnh; (4) Lịch sử cách mệnh Mỹ; (5)
Cách mệnh Pháp; (6) Lịch sử cách mệnh Nga; (7) Quốc tế; (8) Phụ nữ quốc tế; (9)
Công nhân quốc tế; (10) Cộng sản thanh niên quốc tế; (11) Quốc tế giúp đỡ; (12)
Quốc tế cứu tế đỏ (13) Cách tổ chức công hội; (14) Tổ chức dân cày; (15) Hợp
tác xã.
Về
kết cấu nội dung: Tác phẩn được triển khai theo ba nội dung cơ bản: Những vấn đề
lý luận cách mạng chung; tổng kết các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới,
rút ra bài học cho cách mạng Việt Nam; xác định phương pháp tổ chức và hoạt động
cách mạng.
III.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1. Những vấn đề lý luận chung về cách mạng
xã hội
Trên
tờ bìa cuốn sách, ngay dưới tên sách là câu trích trong tác phẩm Làm gì? Của V.I.Lênin, khẳng định vai
trò và tầm quan trọng của lý luận đối với sự phát triển của phong trào cách mạng
nói chung: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động…Chỉ có
theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách
mệnh tiền phong”.
Trong
phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Mục đích sách này là để nsoi cho
đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì
sao cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người.
(3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong
trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách
mệnh thì phải làm thế nào?”. Để rồi đạt đến mục đích cao nhất là: “đồng bào xem
rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì đứng lên đoàn kết
nhau mà làm cách mệnh”.
Đường cách mệnh xác
định chuẩn mục đạo đức của những người cách mạng, những người tham gia trực tiếp
vào sự nghiệp gian khổ, hy sinh, nhưng vẻ vang của dân tộc. Ở đây, Hồ Chí Minh
đã bước đầu thể hiện một quan niệm trở thành triết lý nhân sinh: Lý luận cách mạng
hàm chứa các giá trị nhân văn cao cả; cách mạng là sự nghiệp hào hùng, oanh liệt,
vẻ vang, người cách mạng phải có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh mới tiếp thu
được tinh thần của lý luận, mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn.
Nguyễn
Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong ba mối quan hệ cơ bản của một con
người.
(1) Đối với mình, có 14 tiêu chuẩn: Cần
kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay
hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu
danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít
lòng ham muốn về vật chất. Bí mật.
(2) Đối với người, có 5 chuẩn mực: Với
từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực
mà không táo bạo. Hay xem xét người.
(3) Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: Xem
xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Những
phẩm chất này làm thành các giá trị về nhân cách con người, nhân cách làm người-
Một mẫu người mới đang định hình và xuất hiện trong phong trào cách mạng của
dân tộc.
Tác
phẩm giải quyết các vấn đề về nguyên nhân dẫn đến cách mạng, các loại cách mạng
và vai trò của nó trong lịch sử.
Về
Đảng chính trị, Đường cách mệnh xem đảng
cách mệnh, đảng cộng sản là nhân tố quyết định sự thành công của cách mệnh. Người
viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công, cũng như
người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam.
“Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Luận
điểm này của Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định một vấn đề có tính nguyên tắc, đặt nền
móng lâu dài cho công tác xây dựng đảng về tư tưởng – lý luận.
Đường cách mệnh chỉ
rõ cách mệnh là sự nghiệp của toàn dân tộc chứ không phải của một vài cá nhân.
Lần đầu tiên trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xác định khái niệm lực lượng
cách mạng một cách đúng đắn, khoa học dựa vào tiêu chí “bị áp bức”: “ai mà bị
áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Theo
tiêu chí đó, Người xếp “công nông là gốc cách mệnh”, không chỉ họ chiếm số đông
trong dân chúng mà cơ bản là họ bị áp bức, bốc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất.
Nguyễn Ái Quốc coi “học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của
công nông”. Những chỉ dẫn cơ bản này là nền tảng lý luận hình thành khối liên
minh công nông và Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc
ở Việt Nam.
Đường cách mệnh coi
đoàn kết như một nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Theo Người, “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản
Pháp yếu thì công nông Pháp là giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông
Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”. Mỗi quan hệ đó
chính là hai cánh của con chim cách mạng bay cao và bay xa.
2. Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng
điển hình trên thế giới và rút ra bài học cho cách mạng Việt Nam
Đường cách mệnh giới
thiệu tính chất, nội dung các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, cách mạng
Mỹ năm 1776, Cách mạng Pháp 1789, lịch sử cách mạng Nga 1917. Từ sự phân tích
tính chất, nội dung các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận
mang tính so sánh với tiến trình vận động lịch sử: Mặc dầu có ý nghĩa to lớn
trong tiến trình phát triển của nhân loại, nhưng các cuộc cách mạng này vẫn là
những cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để. Trong quan niệm của Người,
chỉ có cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Nguyễn
Ái Quốc viết “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng
thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe
khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra
sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập
đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trên thế giới”.
Việc
phân tích các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, đối chiếu với nhu cầu
khách quan của cách mạng Việt Nam là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra bài học lớn: Dân tộc ta phải đi theo con đường
cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
3. Phương pháp tổ chức hoạt động cách mạng
Đường cách mệnh giới
thiệu công lao to lớn của Quốc tế I, Quốc tế II; phê phán đường lối phi mác xít
của những người cơ hội trong Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc vạch rõ cách mạng Việt
Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới và để bảo đảm sự
thắng lợi, cách mạng nước ta phải dựa vào Quốc tế III, tức Quốc tế Cộng sản.
Học
tập kinh nghiệm của thế giới, tác phẩm hướng dẫn cách thức tổ chức, vận động quần
chúng: Cách mạng Việt Nam phải tổ chức ra các đoàn thể quần chúng như công hội,
nông hội, phụ nữ, thanh niên… theo đường lối Cách mạng Tháng Mười Nga, của Quốc
tế Cộng sản.
IV.
GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TÁC PHẨM
1. Ý nghĩa lịch sử
Tác
phẩm Đường cách mệnh đóng vai trò
quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam những năm 20
của thế kỷ XX, trong việc kết hợp phong trào yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin
tạo lập các tiền đề tư tưởng lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
năm 1930.
Góp
phần khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc; khẳng định rõ
xu hướng lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, vừa thỏa mãn được các nhu cầu
khách quan của đất nước, vừa phù hợp với xu thế của thời đại sau Cách mạng
Tháng Mười Nga.
Trở
thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam; tài liệu mẫu
mực trong việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào giải quyết cách vấn
đề thực tiễn, nhất là trong những giai đoạn lịch sử có sự thay đổi mang tính chất
bước ngoặt.
Nhiều
vấn đề có liên quan đến con đường cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết các lực
lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững mạnh,
nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản vẫn giữ nguyên tính thời sự
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
2. Giá trị lý luận
Thông
qua tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn
Ái Quốc – Người cộng sản Việt Nam đầu tiên – đã trình bày những điều cốt lõi của
học thuyết cách mạng Mác – Lênin, phù hợp với một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng định tính phổ biến của các nguyên lý của học
thuyết Mác– Lênin trên phạm vi toàn cầu, không chỉ ở Châu Âu, mà còn ở Phương
Đông, Châu Á.
Tác
phẩm đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức lý luận của Nguyễn Ái Quốc, góp
phần phát triển sáng tạo nhiều vấn đề trong lý luận cách mạng Mác – Lênin.
3. Giá trị thực tiễn và tính thời sự của
tác phẩm đối với công tác xây dựng Đảng hiện nay
Tác
phẩm truyền tải nhiệt huyết cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu
nước, triệt để cách mạng của Người cho các thế hệ cán bộ, đảng viên ngày nay.
Nghiên
cứu thật kỹ lưỡng tác phẩm sẽ tiếp tục làm sáng tỏ phương pháp cách mạng nói
chung và phương pháp công tác tư tưởng nói riêng. Đó là, trước hết phải làm tốt
công tác giáo dục lý luận cách mạng, sau đó phải tuyên truyền, vận động để biến
thành hành động cách mạng.
Tác
phẩm củng cố, vun đắp ý chí cách mạng, kiên trì đường lối cách mạng Việt Nam.
Tiếp
tục khẳng định tư cách người cách mệnh; có lý tưởng, có đạo đức trong sáng, góp
phần phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng và các Nghị quyết Trung ương, đặc biệt Nghị quyết Trung
ương 4 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Theo cuốn Hướng dẫn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Nhà xuất bản Văn hóa- Thông tin