Người ta thấy rằng sự thiếu hoặc thừa các chất dinh dưỡng trên so với
nhu cầu đều dẫn đến ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe và có thể dẫn đến
bệnh tật. Chúng ta còn biết rằng trong thức ăn không chỉ có các chất
dinh dưỡng mà còn có các chất tạo màu sắc, hương vị cũng như có thể có
các chất độc hại đối với cơ thể. Do đó để có bữa ăn hợp lý, an toàn và
ngon cần có kiến thức về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, kỹ thuật chế
biến, nấu nướng. Trong nội dung này chỉ đề cập tới nhu cầu các chất dinh
dưỡng.
I. NĂNG LƯỢNG
1. Tiêu hao năng lượng.
Trong quá trình sống của mình, cơ thể con người luôn phải thay cũ
đổi mới và thực hiện các phản ứng sinh hóa, tổng hợp xây dựng các tế
bào, tổ chức mới đòi hỏi cung cấp năng lượng. Nguồn năng lượng đó là từ
thức ăn dưới dạng protein, lipit, gluxit.
Các nhà khoa học đã xác định và thể hiện đơn vị năng lượng bằng
đơn VỊ KILOCALO ( VIẾT TẮT LÀ KCAL ). ĐÓ là nhiệt lượng cần thiết để đưa
1 lít nước từ 150C. Ngày nay còn một đơn vị năng lượng được dùng là
Jun, đơn vị này dựa và cách tính cơ năng, 1 Jun được tính là lực 1(N)
chuyển một vật có trọng lượng 1 kg dời một khoảng cách 1m.
1 Kcal = 4,184 Kilojun.
Ðể xác định năng lượng cung cấp từ thức ăn người ta sử dụng Bom calori (Hình 1).
Quá trình phản ứng sinh nhiệt từ thức ăn trong Bom calori được biểu diễn dưới cơ chế phản ứng sau:
Gluxit, protein, lipit + O2 đ Nhiệt năng + H2O + CO2
Quá trình này cũng tương tự trong cơ thể người, quá trình đó khá
giống ở cơ và gan. Trong cơ thể người năng lượng tạo ra từ cùng một
lượng thức ĂN SO VỚI Ở BOM CALORI THÌ thấp hơn. Do trong cơ thể một
lượng thức ăn không được tiêu hóa hấp thu hết thải ra theo phân, lý do
thứ hai là trong cơ thể một số chất không được đốt cháy hoàn toàn và
thải ra theo nước tiểu như protein, urê, axit uric...
Xác định năng lượng tiêu hao của cơ thể có hai phương pháp trực tiếp và gián tiếp:
- Phương pháp trực tiếp tương tự cách xác định năng lượng của
thực PHẨM Ở BOM CALORI. Ở phương pháp này năng lượng tiêu hao tương
đương với năng lượng làm nhiệt độ nước tăng lên, thường nhiệt lượng đo
được ở CÁCH HỢP VỚI VIỆC ÐO lượng O2 sứ dụng và CO2 sinh ra trong quá
trình hoạt động của cơ thể ở NHÀ ÐO NHIỆT VÀ DỰA vào thương số hô hấp
phụ thuộc vào chất được đốt cháy (Hình 2):
NẾU GLUXIT ÐƯỢC ÐỐT CHÁY RQ = 1,0 , LIPIT RQ - 0,71, protein được đốt cháy thì RQ = 0,81.(RESPIRATORY quotient - RQ)
Thường chế độ ăn nói chung là hỗn hợp của cả 3 chất do đố thương số hô hấp thường tính trung bình: 0,8-0,85.
- Phương pháp gián tiếp xác định tiêu hao năng lượng qua lượng
oxy cơ thể sử dụng. Từ đó tính năng lượng được sinh ra liên quan với 1
lít oxy sử dụng là 4,82 Kcal.
2. Chuyển hóa cơ sở.
Chuyển hóa cơ sở là năng lượng cơ thể tiêu hao trong điều kiện
nghỉ NỘI, NHỊN ÐÓI VÀ Ở NHIỆT ÐỘ MÔI TRƯỜNG THÍCH HỢP. ĐÓ là năng lượng
cần thiết để duy trì các chức phận sống của cơ thể như tuần hoàn, hô
hấp, bài tiết, tiêu hóa, duy trì tính ổn định các thành phần của dịch
thể bên trong và bên ngoài tế bào.
Người ta biết rằng hoạt động của gan cần đến 27% năng lượng của
chuyển hoá cơ sở, não 19%, tim%, thận 10%, cơ 18%, và các bộ phận còn
lại chỉ 18%. Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chuyển hóa cơ sở: Tình trạng hệ
thống thần kinh trung ương, cường độ hoạt động các hệ thống nội tiết và
men. Chức phận một số hệ thống nội tiết làm chuyển hóa cơ sở tăng (ví dụ
giáp trạng) trong khi đó hoạt động một số tuyến nốt tiết khác làm giảm
chuyển hóa cơ sở (ví dụ tuyến yên). Chuyển hóa cơ sở của trẻ em cao hơn ở
NGƯỜI LỚN TUỔI, TUỔI CÀNG NHỎ CHUYỂN HOÁ CƠ SỞ CÀNG CAO. Ở người đứng
tuổi và người già chuyển hoá cơ sở thấp DẦN SONG SONG VỚI SỰ GIẢM KHỐI
NẠC VÀ TĂNG KHỐI MỠ. ở người trưởng thành, năng lượng cho chuyển hóa cơ
sở vào khoảng 1kcal/kg cân nặng/1 giờ.
ở người phụ nữ có thai chuyển hóa tăng trong thời kì mang thai,
và cao nhất ở những tháng cuối, trung bình ở PHỤ NỮ MANG THAI CHUYỂN hóa
cơ sở tăng 20%. Khi một người bị thiếu dinh dưỡng hay bị đói, chuyển
hóa cơ sở cũng giảm, hiện tượng đó sẽ mất đi khi nào cơ thề được đáp ứng
đủ nhu cầu năng lượng. Cấu trúc cơ thể của một người có ảnh hưởng đến
chuyển hóa cơ sở, so sánh người có cùng trọng lượng, người có khối mỡ
nhiều chuyển hóa cơ sở thấp hơn so với người có khối nạc nhiều.
Nhiệt độ cơ thể liên quan với chuyển hóa cơ sở, khi cơ thể bị sốt
tăng lên 10C thì chuyển hóa cơ sở tăng 7%. .Nhiệt độ môi trường cũng có
ảnh hưởng tới chuyển hóa cơ sở song không lớn lắm, thường khi nhiệt độ
môi trường tăng thì chuyển hóa cơ sở cũng tăng lên và ngược lại nhiệt độ
môi trường giam chuyển hóa cơ sở cũng giảm.
Sau một bữa ăn chuyển hóa cơ sở tăng lên từ 5% đến 30% , người ta
gọi đó là tác dụng động lực đặc hiệu , trong đó đạm tăng tới 40%, chất
béo 14%, gluxit 6%.
CÓ THỂ tính chuyển hóa cơ sở theo bảng sau:
3. Lao động thể lực.
Ngoài phần năng lượng tiêu hao để duy trì các hoạt động của cơ
thể, lao động thể lực càng nặng thì tiêu hao càng nhiều năng lượng. Năng
lượng thêm vào ngoài chuyển hóa cơ bản tùy theo cường độ lao động, thời
gian lao động. Từ lâu người ta cũng biết những khác nhau về năng lượng
tiêu hao có thể khác nhau khá lớn ngay cả khi có cùng điều kiện sống và
công việc đó ỉa những yếu tố thể trọng, tuổi, môi trường và đặc biệt sự
khéo léo và thành thục công việc.
Nếu ăn uống không đảm bảo mức tiêu hao năng lượng người ta sẽ kéo
dài thời gian nghỉ, hoặc giảm cường độ lao động dẫn tới năng suất lao
động giảm.
Dựa vào tính chất, cường độ lao động thể lực người ta xếp các loại nghề nghiệp thành nhóm như:
- Lao động nhẹ: Nhân viên hành chính, các nghề lao động trí óc, nghề tự do, nội trợ, giáo viên.
- Lao động trung bình: Công nhân xây dựng , nông dân, nghề cá, quân nhân, sinh viên.
- Lao động nặng. Một số nghề nông nghiệp, công nhân công nghiệp
nặng, nghề mỏ, vận động viên thể thao, quân nhân thời kỳ luyện tập.
- Lao động đặc biệt: Nghề rừng, nghề rèn.
Cách phân loại này chỉ có tính cách hướng dẫn , trong cùng một
loại nghề nghiệp, tiêu hao năng lượng thay đổi nhiều tùy theo tính chất
công việc.
4. Tính nhu cầu năng lượng cả ngày.
Ðể xác định nhu cầu năng lượng cả ngày, người ta cần biết nhu cầu
cho chuyển hóa cơ sở và thời gian, tính chất các hoạt động thể lực
trong ngày. THEO TỔ CHỨC Y tế thế giới (1985) có thề tính năng II rừng
cả ngày từ nhu cầu cho chuyển hóa cơ sở theo các hệ số sau:
Ví dụ: nhu cầu năng lượng của nhóm lao động nam lứa tuổi 18-30, cân nặng trung bình 50 kg , loại lao động vừa như sau:
- Tra bảng 1 ta tính được nhu cầu cho chuyển hóa cơ sở là:
( 15,3 x 50 ) + 679 = 1444 Calo.
Tra bảng 2 ta tìm được hệ số tương ứng cho lao động vừa ở NAM LÀ 1,78 VÀ TÍNH được nhu cầu cả ngày như sau:
1444 Calo x 1,78 - 2570 Calo.
5. DUY TRÌ CÂN NẶNG NÊN CÓ:
ở trẻ em, tăng cân là một biểu hiện của PHÁT TRIỂN BÌNH THƯỜNG VÀ
DINH DƯỠNG HỢP LÝ. ở người trưởng thành quá 25 TUỔI CÂN NẶNG THƯỜNG DUY
TRÌ Ở mức ổn định quá béo hay quá gầy đều không có lợi đối với sức
khỏe. Người ta thấy rằng tuổi thọ trung bình của người béo thấp hơn và
tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch cao hơn người bình thường. Có NHIỀU CÔNG
THỨC ÐỂ tính cân nặng "nên có" hoặc các chỉ số tương. ứng. Một chỉ số
ÐƯỢC SỬ DỤNG NHIỀU VÀ ÐƯỢC TỔ CHỨC Y tế thế giới (1985) khuyến nghị là
chỉ số khối cơ thể (BODY MASS INDEX, BMI ), TRƯỚC ÐÂY CÒN GỌI LÀ CHỈ SỐ
QUETELET:
TRONG ÐÓ : W: Cân nặng tính theo Kg
H: Chiều cao tính theo in
THEO TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI, CHỈ SỐ BMI Ở người bình thường nên
năm trong khoảng 18,5-25 ở CẢ NAM VÀ NỮ. THEO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA
VIỆN DINH DƯỠNG, CHỈ SỐ BMI Ở người Việt nam 26-40 tuổi nam là 19,72 +
2,81, nữ 19,75 + 3,41
II NHU CầU CáC CHấT DINH DƯỡNG
A . NH U Cầ U Cá C CHấT SINH NĂ NG L ượNG
1. Nhu cầu Protein.
Trong quá trình sống, thường xuyên diễn ra quá trình phân hủy và
sinh tổng hợp các chất, quá trình thay cũ đổi mới về thành phần tế bào.
Ðể đảm bảo quá trình phân hủy và đổi mới hàng ngày cần bổ xung chất
protein vào MÁU. CHẤT PROTEIN Ở cơ thể người ta chỉ có thể tạo thành từ
protein của thực phẩm, chất protein không thể tạo thành từ chất lipit và
gluxit.
Nhu cầu protein hàng ngày của cơ thể là bao nhiêu ? Câu hỏi đó
vẫn đang là đề tài cho các tranh luận và nghiên cứu sôi nổi. Giữa thế kỷ
19 Voi, Rubner và Atwater qua nhiều nghiên cứu phân tích thống kê tình
hình ăn uống của nhiều nước đi đến kết luận là trung bình mỗi người mỗi
ngày cần 118g protein.
Chittenden trên cơ sở nghiên cứu cân bằng ni tơ đi đến kết luận
là hàng ngày mỗi người chỉ cần 55-60g Protein nghĩa là chỉ cần một nửa
nhu cầu do Voi đề xuất.
Bản chất của nhu cầu protein: Nhu cầu protein cho d(ly trì quá
trình thay cũ đổi mới, bù đắp lượng ni tơ mất theo da, phân, và trong
chu kì kinh nguyệt. Nhu cầu protein để phát triển cơ thể đang lớn, phụ
nữ có thai cần protein để xây dựng tổ chức mới, người mẹ cho con bú mỗi
ngày tiết 500ml sữa có khoảng 10,5g protein. Nhu cầu protein cho quá
trình hồi phục sau một chấn thương (mổ, bỏng) hay sau khi ốm khỏi, cơ
thể cần protein dể hồi phục.
CÓ nhiều phương pháp xác định nhu cầu protein tuy nhiên chưa có
phương pháp nào thật chính xác. Người ta thường sử dụng hai phương pháp:
Bilăng ni tơ xác định lượng ni tơ ăn vào và ni tơ thải ra theo phân,
nước tiểu, người ta tìm được nhu cấu protein bằng cách điều chỉnh lượng
ăn vào cho đến khi Bilăng ni tơ cân bằng. Phương pháp thứ hai là phương
pháp tính từng phần nhu cầu cho lượng nitơ mất đi không tránh khỏi để
duy trì nhu cầu cho phát triển, để chống đỡ các kích thích.
Người ta đã xác định được những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu
protein như: Các yếu tố công kích, thường phải mất cho các yếu tố này
tới 10% nhu cầu đó là các tác động của các stress, phiền muộn, mất ngủ,
nhiễm khuẩn nhẹ...Nhiệt độ môi trường cũng có ảnh hưởng tới nhu cầu
protein, khi ở MÔI TRƯỜNG NÓNG LƯỢNG ni tơ mất theo mồ hôi tăng lên. Khi
bị nhiễm khuẩn cơ thể tăng quá trình giáng hóa protein, tổn thương ở
các mô bị nhiễm khuẩn, sốt đều dẫn tới nhu CẦU PROTEIN TĂNG LÊN. Ở người
lao động nhu cầu protein tăng lên không chỉ do nhu cầu năng lượng tăng
mà protein còn cần thiết cho việc tái tạo các thể liên kết photphat sinh
năng lượng đòi hỏi cơ chất là protein.
NĂM 1985 NHÓM CHUYÊN VIÊN HỖN HỢP CỦA TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI (OMS)
VÀ TỔ chức nông nghiệp thực phẩm ( FAO) đã xem xét lại các kết quả
nghiên cứu về cân bằng ni tơ đã đi đến kết luận là nhu cầu protein của
người trưởng thành được coi là an toàn tính theo protein của sữa bò
trong mỗi ngày đối với 1 kg thể trọng là 0,75g cho cả 2 giới.
Trong thực tế, người ta ăn khẩu phần ăn hỗn hợp nhiều loại thực
phẩm và Ở CÁC NƯỚC phát triển như nước ta thường ăn nhiều thực phẩm
nguồn gốc thực vật, protein có giá trị sinh học thấp hơn nhiều so với
trứng và sữa, hơn nữa cũng để đảm bảo an toàn nên nhu cầu thực tế của
protein nâng lên cao hơn. Người ta thường tính nhu cầu thực tệ từ nhu
cầu an toàn theo công thức sau:
Theo nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng, hệ số sử dụng protein (NPU)
trong các LOẠI KHẨU PHẦN THƯỜNG GẶP Ở nước ta là 60%, như vậy nhu cầu
protein thực tế sẽ là :
Các nhà dinh dưỡng và sinh lý gần như đã thống nhất là nhu cầu
tối thiểu về protein là 1g/kg/ngày, nhiệt lượng protein khẩu phần trung
bình là 12%.
NHU CẦU PROTEIN CAO HƠN Ở TRẺ EM, Ở phụ nữ có thai và cho con bú. Nhu cầu protein của trẻ em là:
0-12 tháng : 1,5 - 2,3 g/kg cân nặng/ngày.
1-3 tuổi : 1,5 - 2 g 1 kg cân nặng/ngày.
2. Nhu cầu lipit:
Nhu cầu về lipit hiện nay vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu để làm
sáng tỏ. Người ta thấy lượng lipit ăn vào của khẩu phần ăn hàng ngày ở
CÁC NƯỚC KHÁC NHAU TRÊN THẾ GIỚI CHÊNH LỆCH NHAU RẤT NHIỀU. Ở CÁC NƯỚC
CHÂU Âu, Bắc Mỹ trong khẩu phần ăn có tới 150 g lipit một ngày tức là
chiếm khoảng 50% tổng số năng lượng của khẩu phần, trong khi đó NHIỀU
NƯỚC Ở CHÂU Á, châu Phi lượng lipit ăn vào không quá 15 - 20g/1 người/1
ngày. Theo KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CHO THẤY Ở TẤT cả mọi
nơi nếu muốn nuôi dưỡng tốt lượng lipit nên có là 20% trong số năng
lượng của khẩu phần và không nên vượt quá 25-30% tổng số năng lượng của
khẩu phần. Riêng đối với những người hoạt động thể lực nặng, nhu cầu
năng lượng cao trên 4000 Kcal/ngày lượng lipit tăng lên nhưng cũng chỉ
trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên nhu cầu chất béo còn phụ thuộc vào tuổi, tính chất lao
động, đặc điểm dân tộc, khí hậu. Người ta thấy nhu cầu lipit có thể tính
tương ÐƯƠNG VỚI LƯỢNG PROTEIN ĂN VÀO.
ở người còn trẻ và trung niên tỷ lệ đó có thể là 1:1 nghĩa là
lượng đạm và lipit ngang nhau trong khẩu phần. Ở NGƯỜI ÐÃ đứng tuổi tỷ
lệ lipit nên giảm bớt và tỉ lệ lipit với protein là 0,7:1. Ở NGƯỜI GIÀ
LƯỢNG lipit chỉ nên bằng 1/2 lượng protein.
3. Nhu cầu gluxit.
Nhu cầu gluxit từ trước chủ yếu xác định phụ thuộc vào tiêu hao
năng lượng vì cho rằng gluxit đơn thuần là nguồn cung cấp năng lượng.
Ngày nay người ta thấy gluxit có một số chức năng mà các chất dinh dưỡng
khác không thể thay thế được. Ví dụ hoạt động của tế bào não, tế bào
thần kinh thị giác, mô thần kinh đặc biệt dựa vào glucose là nguồn năng
lượng chính. Gluxit còn đóng vai trò quan trọng khi liên kết với những
chất khác tạo nên cấu trúc của tế bào, mô và các cơ quan. Không những
thế, chế độ ăn đảm bảo gluxit còn cung cấp cho có những chất cần thiết
khác.
Một số nghiên cứu về nhân chủng học và dinh dưỡng ở MỘT SỐ BỘ LẠC
NGƯỜI ta chủ yếu ăn thịt động vật và chất béo, lượng gluxit chỉ dưới
20% (người Eskimos). Còn phần lớn mọi người đều ăn chế độ hỗn hợp với
lượng gluxit có từ 56-70% năng lượng. Cho đến nay nhu cầu về gluxit luôn
dựa vào việc thỏa mãn nhu cầu về năng lượng và liên quan với các
vitamin nhóm B CÓ NHIỀU TRONG NGŨ cốc.
B. NHU CẦ U CHẤT KHOÁNG
Hiện nay người ta tìm thấy trong cơ thể con người có khoảng 60
nguyên tố trong bảng hệ thống tuần hoàn Menđêlêep trong đó vai trò của
nhiều nguyên tố chưa được xác định. Nhưng mọi người đều thấy rõ vai trò
của chất khoáng, nếu trong khẩu phần để nuôi động vật thí nghiệm không
có chất khoáng thì động vật nhanh chóng bị chết.
Chất khoáng là thành phần quan trọng của tổ chức xương có tác
dụng duy trì áp lực thẩm thấu, có nhiều tác dụng trong các chức phận
sinh lý và chuyển hóa của cơ thể ăn thiếu chất khoáng sinh nhiều bệnh.
Thiếu iốt gây bướu cổ. Thiếu fluo gây hà răng. Thiếu canxi sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động của cơ tim, tới chức phận tạo huyết và đông máu, gây bệnh
còi xương ở trẻ em và xốp xương ở người lớn và người già.
1. Sắt:
Trong số chất khoáng cơ thể cần, người ta chú ý trước hết tới sắt
(Fe). Cơ thể người trưởng THÀNH CÓ TỪ 3-4 GAM SẮT, TRONG ÐÓ 2/3 CÓ Ở
hemoglobin là sắc tố của hồng cầu, phần còn lại dự trừ trong GAN. MỘT
PHẦN NHỎ HƠN CÓ Ở THẬN, lách và các cơ quan khác. Mặc dù số lượng không
nhiều nhưng sắt là một trong các thành phần dinh dưỡng quan trọng nhất,
có tầm quan trọng cơ bản đối với sự sống. Sắt là thành phần của huyết
sắc tố, myoglobin, các xitrocrom và nhiều enzim như catalaza và các
peroxidaza. Như thành phần của các phức chất ấy và của các men kim loại -
hữu cơ, sắt vận chuyển oxy và giữ vai trò quan trọng trong hô hấp tế
bào.
Ðời sống của hồng cầu khoảng 120 ngày nhưng lượng Fe được giải
phóng không bị đào thải mà phần lớn được dùng lại để tái tạo huyết sắc
tố. Nhu cầu sắt thay đổi tuỳ theo điều kiện sinh lý. Trẻ sơ sinh ra đời
với một LƯỢNG SẮT DỰ TRỮ KHÁ LỚN Ở gan và lách. Trong những tháng đầu,
đứa trẻ sống dựa vào lượng sắt dự trữ đó vì trong sữa của người mẹ có
rất ít chất sắt. Ðó là lý do ngày nay người ta khuyến khích các bà mẹ
cho con ăn sam sớm hơn từ tháng thứ 5 so với trước đây thường là tháng
thứ sáu.
NHU CẦU SẮT Ở LỨA TUỔI trưởng thành tăng lên nhiều do cơ thể phát
triển nhiều tổ chức mới - mỗi NGÀY LƯỢNG SẮT MẤT ÐI Ở NGƯỜI TRƯỞNG
THÀNH VÀO KHOẢNG 1 MG Ở NAM VÀ 0,8 MG Ở NỮ NHƯNG Ở NỮ LẠI CÓ LƯỢNG sắt
mất thêm theo kinh nguyệt vào khoảng 2 mg/ ngày.
SẮT Ở THỊT ÐƯỢC HẤP THU khoảng 30%, đậu tương 20%, cá 15%, các
thức ăn thực vật như ngũ cốc, rau và đậu đỗ (trừ đậu tương) chỉ hấp thu
khoảng 10%. Vitamin C HỖ TRỢ HẤP THU SẮT CÒN CÁC PHYTAT, photphat cản
trở sự hấp thu sắt. Nhu cầu phụ của người mẹ khi có thai và tiết sữa xấp
xi nhu cầu phụ do kinh nguyệt. Do trong thời kỳ có thai và bắt đầu tiết
sữa không có kinh nguyệt nên nhu cầu đối với người phụ nữ có thai và
cho con bú cũng giống như người phụ nữ trong thời kỳ kinh nguyệt.
Nguồn sắt trong thức ăn: sắt có nhiều trong các thức ăn nguồn gốc
động vật, các hạt họ đậu nhất là đậu tương. Các loại rau quả cũng là
nguồn sắt quan trọng trong bữa ăn.
Các chế độ ăn hỗn hợp thường chứa khoảng 12-15 mg sắt trong đó
1mg được hấp thu: chừng ấy dủ cho người nam giới trưởng thành nhưng
thiếu đối với thiếu niên và phụ nữ. Nhu cầu các đối tượng này theo các
chuyên viên CỦA CÁC TỔ CHỨC Y TẾ THẾ giới (OMS) là 24 - 28 mg. Trong
trường hợp này cũng như ở NHỮNG NƠI DÙNG NHIỀU thức ăn tinh chế công
nghiệp, người ta khuyên nên tăng cường chất sắt vào khẩu phần.
Bệnh thiếu máu thiếu sắt là một bệnh dinh dưỡng có tầm quan trọng
lớn, tuy ít khi gây tử vong, nhưng nó làm hàng triệu người ở TRONG TÌNH
TRẠNG YẾU đuối, sức khỏe kém. Trẻ em học kém do thiếu máu gây buồn ngủ
và kém do thiếu máu gây buồn ngủ và kém tập trung. Người lớn giảm khả
năng lao động vì chóng mệt phải nghỉ luôn và nghỉ kéo dài. Thiếu máu đặc
biệt gây nguy hiểm cho phụ nữ thời gian sinh nở.
2. Canxi.
Trong cơ thể canxi chiếm vị trí đặc biệt. Canxi chiếm 1/3 khối
lượng chất KHOÁNG TRONG CƠ THỂ VÀ 98% CANXI NẰM Ở xương và răng. Cho nên
canxi rất cần thiết đối với trẻ em có bộ xương đang phát triển và với
phụ nữ có thai, cho con bú.
Trước đây do nghiên cứu thấy lượng canxi hấp thu thấp khí ăn từ
chế độ giàu sữa, giầu canxi chuyển sang chế độ ăn nhiều thực phẩm nguồn
gốc thực vật và nghèo canxi, nên các nhà dinh dưỡng có khuynh hướng đưa
nhu cầu canxi hàng ngày lên cao để đảm bảo an toàn. Nhưng các công trình
nghiên cứu gần đây cho thấy chỉ khoảng sau vài tuần ăn khẩu phấn nhiều
thực phẩm nguồn gốc thực vật và ít canxi thì cơ thể đã thích ứng, tiêu
hóa hấp thu được phytat canxi có nhiều trong thực phẩm nguồn gốc thực
vật và do đó nhu cấu CANXI CÓ THỂ ÐẶT RA Ở MỨC THẤP HƠN. Ở NGƯỜI LỚN,
KHOẢNG 400-500 MG/NGÀY, PHỤ NỮ CÓ thai trong 3 tháng cuối và cho con bú
cần 1000-1200mg/ngày.
ĐIỀU TRA KHẨU PHẦN CỦA NHÂN DÂN Ở cả hai miền Nam, Bắc đều có
canxi chỉ đạt khoảng 400 mg . Lý do chính vì trong khẩu phần ăn của ta
có ít sữa, các loại thủy sản hoàn toàn bỏ không ăn xương, một ít canxi
có trong nước uống.
Trong 100g sữa bò có 120 mg canxi, trong 100g lương thực ( gạo,
ngô, bột mì ) chỉ có khoảng 30 mg canxi. Trong thịt các loại chỉ có từ
10-20 mg canxi nhưng trong các loại rau đậu đều có trên 60 mg, đặc biệt
đậu tương có 165 mg và vừng 1200 mg. Những loại rau có trên 100 mg canxi
trong 100 g rau gồm rau muống, mùng tơi rau rền, rau đay, rau ngót. Các
loại thủy sản thường có nhiều canxi, xương cá cũng là một canxi tốt nếu
ăn kho nhừ.
Tóm lại, trong cơ cấu bữa ăn nên có thêm đậu các loại nhất là đậu
tương, có thêm vừng lạc, rau quả , cá và thủy sản thì ngoài việt có
thêm protein và lipit, chúng ta sẽ không lo thiếu canxi.
3. Iốt.
Iốt là thành phấn dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Ðó LÀ THÀNH
PHẦN CẤU TẠO của các nội tố của tuyến giáp trạng tyroxin, tridotyroxin
giữ vai trò chuyển hóa quan trọng. Khẩu phần đủ iốt là một trong các yếu
tố có ảnh hưởng quyết định đến sự tiết nội tố của tuyến giáp trạng. Khi
thiếu iốt tuyến giáp trạng tăng hoạt động, cố gắng bù trừ lượng thiếu
và tuyến giáp phì đại tạo nên bướu cổ.
Bệnh bướu cổ địa phương có mức độ khác nhau thường gặp ở MỘT SỐ
ÐỐI TƯỢNG nhân dân có khẩu phần nghèo iốt. Iốt trong thức ăn được hấp
thu ở RUỘT NON VÀ ÐI THEO 2 đường chính, khoảng 30% được sử dụng bởi
tuyến giáp trạng đế tạo hóc môn, phần còn lại ra theo nước tiểu. Nhu cầu
đề nghị của người trưởng THÀNH LÀ 0,14 MG/NGÀY, Ở phụ nữ là 0,10
mg/ngày. Nhu cầu ở NGƯỜI MẸ CHO CON BU CAO hơn bình thường 1,5 lần.
Nguồn iốt tốt trong thức ăn là các sản phẩm ở biển và các loại rau trồng
trên đất nhiều iốt. Sữa, các loại thức ăn có sữa và trứng là những
nguồn Iốt khi các con vật ăn thức ăn nhiều iốt. Phần lớn ngũ cốc, các
hạt họ đậu và củ có lượng iốt thấp. Ở CÁC VÙNG CÓ BỆNH bướu cổ, phương
pháp chắc chắn và thực tế nhất để có lượng iốt đầy đủ là tăng cường iốt
cho muối ăn.
4. MUỐI ĂN.
ăn bao nhiêu muối mỗi ngày là vừa, đó là một câu hỏi thường được
đặt ra. Benedict đã nghiên cứu trên một người nhịn ăn thấy rằng trong 10
ngày đầu, cơ thể người đó thải ra 13,9 g muối, 10 ngày sau 3,1 g và 10
ngày tiếp theo 2,6 g. Như vậy là trong 30 ngày, người này thải ra khoảng
20% trong số 100 g muối có trong cơ thể.
Bunge đã làm những thí nghiệm trên bản thân mình và thấy rằng
người ta có thể sống không cần ăn thêm muối nhưng nếu có muối thì người
ta có thể ăn nhiều loại thức ăn. Ta ăn nhiều muối hơn nhu cầu cần thiết
của cơ thể. Người ta đã phân tích thấy rằng , trong thực phẩm hàng ngày
dùng để nấu ăn trong thiên nhiên đã có sẵn từ 3-5 g muối, trong quá
trình nấu nướng món ăn người ta cho thêm 5-10 g và trong bữa ăn người ta
dùng thêm khoảng 3-5 g trong nước chấm và muối chấm.
Cho nên trong 1 ngày trung bình ăn thêm 6-10 g muối là vừa. Nhu
cầu muối đăng lên nếu người ta lao động thể lực nặng, nếu khí hậu thời
tiết nóng NỰC VÀ NẾU LÀM VIỆC Ở chỗ nóng. Trong trường hợp này, mồ hôi
sẽ ra nhiều và cùng với mồ hôi, cơ thể thải ra nhiều muối. Lượng muối
này cần được bổ sung. Trước đây có đề nghị bổ sung bằng nước muối. Nhưng
sau người ta nhận thấy là uống nước muối riêng sẽ có cảm giác khó chịu,
buồn nôn, gần NHƯ Ở TRẠNG thái ngộ độc.
Nếu bổ sung muối vào bữa ăn, thức ăn nấu mặn hơn, thêm muối vào
nước rau hoặc ăn cháo với các muối thì người cảm thấy khỏe và dễ chịu
hơn. Có THỂ GIẢI THÍCH LÀ TRONG TRƯỜNG HỢP NÀY ION NATRI Ở MUỐI ÐÃ ÐƯỢC
CÁC ION KA LI Ở RAU, Ở gạo cân bằng, không còn gây độc nữa.
Quen ăn mặn, ăn nhiều muối quá nhu cầu không tốt. Thống kê cho
thấy số người có thói quen ăn mặn dễ bị huyết áp cao. Lượng muối ăn thừa
vào cơ thể sẽ giữ lại nước trong cơ thể làm mệt tim vì phải vận chuyển
một khối lượng máu tăng lên và làm mệt thận để lọc số muối thừa ra. Nếu
thận kém không lọc được nếu tim yếu không chuyển được máu về thận để lọc
muối, CƠ THỂ SẼ GIỮ NƯỚC LẠI, GÂY PHÙ TỪ NHẸ Ở MU BÀN CHÂN, Ở mặt đến
phù ở BỤNG. CHO NÊN, ÐỐI VỚI bệnh nhân tim và thận người ta hết sức hạn
chế cho ăn nhiều muối.
5. Các yếu tố vi lượng cần thiết khác.
Ngoài sắt và iốt, các yếu tố khác cần thiết cho cơ thể còn có
fluo. kẽm, ma giê , đồng, rôm, se len, coban và mohpđen. Kẽm là thành
phần thiết yếu của cacboanhydraza và nhiều men khác cần thiết cho chuyển
hóa protein và gluxit. Biểu hiện của thiếu kẽm là lớn không bình thường
và chức phận sinh dục kém phát triển. Nhiều trẻ em ăn uống kém, lười ăn
cũng có thể do thiếu kẽm.
Nhu cầu kẽm của người trưởng thành khoảng 2,2 mg/ngày. Lượng kẽm
trong khẩu phần cần có để đáp ứng nhu cầu thay đổi theo cơ cấu của khẩu
phần và lượng kẽm được sử dụng. Mức sử dụng chỉ 10% thì cần 22 mg để đáp
ứng nhu cầu, Trong thời kỳ lớn , có thai và cho con bú nhu cầu cần cao
hơn. Thức ăn động vật là nguồn kẽm tốt: thịt bò, lợn có từ 2-6 mg/100g,
sữa từ 0,3-0,5 mg, cá và hải sản 1,5g/100g, bột ngũ cốc cũng có nhưng
phần lớn đã bị mất trong quá trình xay xát.
- TRONG CƠ THỂ CÓ KHOẢNG 20-25 G MAGIÊ . ĐÓ là yếu tố cần thiết
cho hoạt động nhiều loại men tham gia vào các phản ứng oxy hóa và
phosphoryl hóa số lượng TẠM THỜI VỀ NHU CẦU Ở người trưởng thành khoảng
200-300 mg/ngày. Magiê có NHIỀU TRONG THỨC ĂN THỰC VẬT, Ở thịt và gia
cầm cũng khá.
Mặc dù vai trò của nhiều vi yếu tố khác đã được chứng minh nhưng còn thiếu cơ sở khoa học để xác định nhu cầu của chúng.
C. NHU Cầu VITAMIN
Vitamin là những chất hữu cơ cần thiết với cơ thể và tuy nhu cầu
đòi hỏi với số lượng ít, nhưng chúng bắt buộc phải có trong thức ăn. Tên
gọi "vitamin", có từ năm 1912 do nhà khoa học Ba lan Funk với ý nghĩa
đó là những "amin sống". Tuy nhiên người ta đã nhanh chóng thấy rõ là
các vitamin về hóa học không cùng họ với nhau và chỉ một số là các amin.
Từ lâu vitamin đã được chia thành hai nhóm: các vitamin tan trong
nước và các vitamin tan trong chất béo. Các vitamin tan trong nước khi
thừa đều bài xuất theo nước tiểu như vậy ít có đe dọa xảy ra tình trạng
nhiễm độc vitamin. Ngược lại các vitamin tan trong chất béo không thể
đào thải theo con đường đó mà các lượng thừa đều được dự trữ trong các
mô mỡ, gan. Khả năng tích lũy cua gan lớn nên có thể có dự trữ đủ cho cơ
thể trong thời GIAN DÀI. TUY VẬY MỘT LƯỢNG QUÁ CAO VITAMIN A VÀ D có
thể gây ngộ độc.
CÁC TIỂU BAN CHUYÊN VIÊN VỀ DINH DƯỠNG CỦA TỔ CHỨC Y tế thế giới đã đề nghị về nhu cầu của một số vitamin quan trọng như sau:
1. VITAMIN A ( Retinol ) .
VITAMIN A CÓ nhiều chức phận quan trọng trong cơ thể, trước hết
là vai trò với quá trình nhìn. Andehyt của retinol là thành phần thiết
yếu của sắc tố võng mạc Rodopsin. Khi gặp ánh sáng sắc tố này mất màu và
quá trình này kích thích CÁC TẾ BÀO QUE Ở võng mạc để nhìn thấy ánh
sáng yếu.
VITAMIN A CẦN thiết để giữ gìn sự toàn vẹn lớp tế bào biểu mô bao
phủ bề mặt và các KHOANG TRONG CƠ THỂ. THIẾU VITAMIN A GÂY KHÔ DA
THƯỜNG THẤY Ở màng tiếp hợp, khi lan tới giác mạc thì thị lực bị ảnh
hưởng và gây mềm giác mạc. Thiếu vitamin còn gây tăng sừng hóa nang
lông, bề mặt da thường nổi gai. Thiếu vitamin A LÀM GIẢM TỐC ÐỘ TĂNG
trưởng, giảm sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật và tăng tỷ lệ tử
VONG Ở TRẺ em.
VITAMIN A CHỈ có trong các thức ăn nguồn gốc động vật, cơ thể có
thể tạo thành vitamin A TỪ CAROTEN LÀ LOẠI SẮC tố rất phổ biến trong
thức ăn nguồn gốc thực vật, trong đó b -caroten là quan trọng nhất.
Trong cơ thể cứ 2mcg b -caroten cho 1 mcg retinol, sự HẤP THỤ
CAROTEN Ở ruột non không hoàn toàn, trung bình vào khoảng 1/3. Như vậy
cần eo 6 mcg -caroten trong thức ăn để có 1 mcg retinol. Khi tính hàm
lượng vitamin A TRONG KHẨU PHẦN NÊN tách phần vitamin A, phần caroten và
phải sử dụng hệ số chuyển đổi nói trên để tính ra lượng retinol thực
sự.
1. ĐƠN VỊ QUỐC TẾ (UI) VITAMIN A tương đương 0,3 mcg retinol kết
tinh. Nhu cầu vitamin A Ở TRẺ EM LÀ 300 MCG VÀ Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH LÀ
750 MCG. TRẺ EM KHI ÐẺ RA ÐÃ CÓ NGUỒN VITAMIN A dự trữ trong gan sau đó
là nguồn vitamin A TRONG SỮA MẸ DO ÐÓ cần quan tâm đến chế độ ăn của
người mẹ khi có thai và cho eon bú.
2. Vitamin D3 ( Colecanxiferol ).
VAI TRÒ CHÍNH CỦA VITAMIN D là tạo điều kiện thuận lợi cho sự hấp
thu canxi ở TÁ TRÀNG. ĐÓ LÀ MỘT CHẤT RẤT HOẠT động, một đơn vị quốc tế
(UI) chỉ bằng 0,025 mcg.
HIỆN NAY NGƯỜI TA BIẾT RẰNG Ở gan, Colecanxiferol sẽ chuyển thành
hydroxy-25 sau đó chuyển SANG DIHYDROXI 1-25 Ở thận, đó là những dạng
hoạt động hơn vitamin D.
DẦU CÁ THU LÀ NGUỒN VITAMIN D tốt, ngoài ra có kể đến gan, trứng,
bơ. Thức ăn thực VẬT HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ VITAMIN D. NGUỒN VITAMIN D quan
trọng cho cơ thể là sự nội tổng hợp trong da dưới tác dụng của tia tử
ngoại ánh sáng mặt trời.
NHU CẦU ÐỀ NGHỊ LÀ 10 MCG Ở trẻ em tính ra đơn vị quốc tế là
400UI. Người trưởng thành nếu điều kiện sống thiếu ánh sáng nên có 100
đơn vị quốc tế mỗi ngày.
3. Vitamin B1 ( Thiamin ).
Trong các mô động và thực vật, thiamin là yếu tố cần thiết để sử
dụng GLUXIT. VÌ THẾ MỌI THỨC ĂN ÐỀU CÓ THIAMIN NHƯNG Ở lượng thấp.. Các
loại hạt cần dự trữ thiamin cho quá trình nảy mầm cho nên ngũ cốc và các
hạt họ đậu là những nguồn thiamin tốt. Những thức ăn thiếu thìa min là
các loại đã qua chế biến ví dụ như gạo giã trắng, các loại ngũ cốc, dầu
mỡ tinh chế và rượu. Thiamin của các loại men sử dụng để lên men không
còn trong bia, rượu vang cũng như các loại rượu khác.
Nhu cầu thiamin cần đạt là 0,40 mg/ 1000Kcalo. Khi lượng đó thấp
hơn 0,25 mg/1000Kcalo, bệnh tê phù có thể xảy ra. Nhu cầu thiamin sẽ
được thỏa mãn, khi lương thực cơ bản không xay xát trắng quá, chế độ ăn
có nhiều hạt họ đậu, ngược lại thiếu thiamin sẽ xuất hiện khi sử dụng
nhiều lương thực xay xát trắng, đường ngọt và rượu.
4. Vitamin B2 ( Riboflavin ).
Rilbonavin giữ vai trò chủ yếu (cùng nhóm với axit nicotinic) trong các phản ỨNG OXY HÓA Ở TẾ BÀO TRONG TẤT CẢ CÁC MÔ Ở cơ thể.
Ribonavin phổ biến trong thức ăn, có nhiều trong thức ăn động
vật, sữa, các loại rau, tậu, bia. Các hạt ngũ cốc toàn phần là nguồn B2
tốt nhưng giảm đi nhiều qua quá trình xay xát.
THEO TỔ CHỨC Y tế Thế giới (OMS) nhu cầu vitamin B2 là 0,55mg/1000 Kcalo.
5.Niaxin.
Niaxin là yếu tố phòng bệnh Pelagrơ, một bệnh viêm da đặc hiệu do
dinh dưỡng đã được mô tả từ năm 1730 và trước đây thường lưu hành ở CÁC
VÙNG CHỦ YẾU ÁN NGÔ, Ở NAM MỸ VÀ ĐỊA TRUNG HẢI. TRONG CÁC MÔ ÐỘNG VẬT
NÓ Ở dưới dạng nicotinamit, còn trong các MÔ THỰC VẬT DƯỚI DẠNG AXIT
NICOTINIC. ĐÓ là vitamin bền vừng nhất đối với nhiệt, oxy hóa và các
chất kiềm.
Niaxin và amit của nó có vai trò cốt yếu trong các cơ chế oxy hóa
để giải phóng năng lượng của các phân tử gluxit, lipit, protein. Trong
cơ thể Niaxin có thể được tạo thành từ tryptophan.
Một đương lượng Niaxin tương đương 1 mg Niaxin hay 60 mg
tryptophan. Nhu CẦU ÐỀ NGHỊ CỦA OMS là 6,6 đường lượng Niaxin/1000
Kcalo.
6. VITAMIN C ( Axit aseorbic )
Trong số 160 thủy thủ theo Vasco de Gam tìm đường sang phương
Ðông, 100 người đã chết vì bệnh Scobut đó là vì trong khẩu phần dự trữ
đi biển thời ấy thiếu rau quả tươi.
TRONG CƠ THỂ VITAMIN C tham gia vào các phản ứng oxy hóa khử. Ðó
là yếu tố CẦN THIẾT CHO TỔNG HỢP COLAGEN LÀ CHẤT GIAN BÀO Ở các thành
mạch, mô liên kết, xương, răng. Khi thiếu , bệnh nhân có biểu hiện xuất
huyết, các vết thương lâu thành sẹo. Người ta nhận thấy khi cơ thể bị
bỏng, gãy xương, mổ xẻ hay NHIỄM KHUẨN THÌ LƯỢNG VITAMIN C trong dịch
thể và các mô giải xuống nhanh.
VITAMIN C CÓ NHIỀU TRONG CÁC QUẢ CHÍN. RAU XANH CÓ NHIỀU VITAMIN C
nhưng bị hao hụt nhiều trong quá trình nấu nướng. Khoai tây, khoai lang
cũng là nguồn vitamin C TỐT. LƯỢNG VITAMIN C CẦN THIẾT HÀNG NGÀY cho
người trưởng thành, trẻ em và thiếu niên là 30 mg/ngày.
7. Axit Folic.
Người ta đã phát hiện thấy axit folic cần thiết cho sự phát triển
và sinh trưởng bình thường của cơ thể. Khi thiếu gây ra loại thiếu máu
dinh dưỡng ÐẠI HỒNG CẦU, THƯỜNG GẶP Ở phụ nữ có thai. Axit folic và các
loại folat có nhiều trong các loại rau có lá ( folium - lá) nhu cầu đề
nghị 200 mcg mỗi ngày ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH.
8. Vitamin B12 ( Xianocobalamin ).
Khác với nhiều vitamin khác các loại thực vật cao cấp không tổng
hợp được vitamin B2, chất này chỉ có trong thức ăn động vật mà nguồn
phong phú là gan. Bệnh thiếu máu ác tính xuất hiện khi dạ dày không tiết
ra một chất cần thiết (yếu tố nội) cho sự hấp thụ xianocobalamin (yếu
tố ngoại). Trước khi phát hiện ra vitamin Bi2, đây là một bệnh hiểm
nghèo gây chết trong vòng 2 ÐẾN 5NĂM. TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN BI2 HAY
GẶP Ở NHỮNG người ăn thức ăn thực vật là chủ yếu hoặc ở những người ăn
chay, nhu cầu đề nghị là 2mcg/ ngày
D. TÍNH CÂN ĐỐI CỦA KHẨ U PHẦN
1. Cơ cấu bữa ăn và mô hình bệnh tật.
NHỮNG TÀI LIỆU CỦA TỔ chức nông nghiệp thực phẩm và tổ chức Y TẾ
THẾ GIỚI (FAO/OMS) về cơ cấu khấu phần (tính theo % năng lượng) ở các
nước trên thế giới xếp theo mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người đã
được trình bày ở HÌNH SAU:
Qua hình vẽ này có thể có nhận xét sau đây:
- Về protein: tỷ lệ chung năng lượng do protein cua các loại khẩu
phần không khác nhau nhiều (chung quanh 12% nhưng năng lượng do protein
nguồn gốc động vật tăng dần khi thu nhập quốc dân càng cao).
- Về lipit: mức thu nhập càng cao thì tỷ lệ năng lượng do lipit (nhất là lipit nguồn gốc động vật) càng cao.
- Về gluxit: mức thu nhập càng cao thì năng lượng do gluxit nói
chung và tinh bột nói riêng giảm dần nhưng năng lượng do các loại đường
ngọt (saccaroza) tăng lên.
MÔ HÌNH BỆNH TẬT CŨNG THAY ÐỔI THEO CƠ CẤU BỮA ĂN, Ở các nước
nghèo, mức sống còn thấp thường gặp các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh lao và
các bệnh thiếu dinh dưỡng. Theo số liệu của tổ chức Y TẾ THẾ GIỚI, MỖI
NGÀY TRÊN THẾ GIỚI có khoảng 40.000 trẻ em chết do thiếu dinh dưỡng
nặng, hàng năm có khoảng 250.000 trẻ em bị mù do thiếu vitamin A. Số
người bị thiếu máu dinh dưỡng ước tính đến 2000 triệu người và 400 triệu
người khác bị bướu cổ do THIẾU IỐT.
ở nhiều nước đã phát triển, nhiệt lượng bình quân hằng ngày đạt
trên 3000 Kcalo/ người ( châu âu 3000 Kcal, Bắc Mỹ 3100 KCAL, ÚC 3200
KCAL) LƯỢNG chất béo sử dụng hàng ngày trên 100g/người ( Bắc Mỹ 146 g,
Tây âu 118 g, ÚC 136 G ) CHIẾM 40% TỔNG SỐ NHIỆT LƯỢNG ĂN VÀO. Ở CÁC
nước này bệnh béo phì , vừa xơ động mạch, bệnh cao huyết áp và tim mạch,
bệnh đái đường... là những vấn đề sức khỏe xã hội quan trọng. Theo
thống KÊ Ở PHÁP 15% SỐ DÂN BỊ BỆNH HUYẾT ÁP CAO, 3% BỊ BỆNH ÐÁI ÐƯỜNG, Ở
Ðức trên 20% người trưởng thành bị bệnh béo phì, tỷ lệ này Ở NỮ CAO HƠN
Ở NAM, Ở NÔNG THÔN CAO HƠN Ở thành phố.
Như vậy một chế độ ăn quá nhiều nhiệt lượng, nhiều thịt, nhiều mỡ
trái lại cũng có hại đối với sức khỏe. Theo hiểu biết hiện nay, lý luận
sinh dưỡng cân đối là căn cứ khoa học để xây dựng cơ cấu bữa ăn hợp lý.
2. Những yêu cấu về dinh dưỡng cân đối.
a) Cân đối về năng lượng:
Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất của dinh dường cân đối là xác
định được mối tương quan hợp lý giữa các thành phần dinh dưỡng có hoạt
tính sinh học chủ yếu là protein, lipit, gluxit, vitamin và các chất
khoáng tùy theo tuổi, giới, tính chất lao động và. cách sống. Từ buổi
đầu của.khoa học dinh dưỡng, các tác giả kinh điển như Voi, Saternikov
đã cho rằng tương quan hợp lý giữa P:L:G trong khẩu phần nên là 1:1:5
(nghĩa là 1g protein nên có..1g lipit và 5g gluxit).
Cách trình bầy nguyên tắc cân đối như trên đã được tiếp tục mãi
cho tới nay và có thời kỳ người ta cho rằng tỷ lệ l:1:4 là hợp lý nhất.
Những nghiên cứu sau này cho thấy công thức trên chỉ thích hợp cho những
người lao động thể lực hoặc có nếp sống hoạt động. Với công thức 1:1:4
năng lượng do protein vào khoảng 14% do lipit 30%, do gluxit 56%. Hiện
nay người ta thường thể hiện tính cân đối giữa protein, lipit, gluxit và
cả các thành phần dinh dưỡng khác trong khẩu phần không theo đơn vị
trọng lượng (gam) mà theo đơn vị năng lượng. Cho đến nay những ý kiến về
tính cân đối giữa P:L:G trong khẩu hoàn toàn nhất trí.
VỀ PROTEIN, QUA ÐIỀU TRA KHẨU PHẦN Ở nhiều nơi trên thế giới thấy
rằng năng lượng do protein thường dao động chung quanh 12% " 1. Ở NƯỚC
TA, THEO Viện Dinh dưỡng năng lượng do protein nên đạt từ 12-14% tổng số
năng lượng.
Về chất béo, năng lượng do lipit so với tổng số năng lượng nên
vào khoảng 20-25% tùy theo ở vùng khí hậu nóng, rét và không nên vượt
quá 30%. Khi tỷ lệ này vượt quá 30% hoặc thấp hơn 10% đều có những ảnh
hưởng bất lợi đối với sức khỏi ảnh hường của khí hậu cũng cần được chú
ý.
Người ta khuyên nên tăng thêm 5 % cho những vùng có khí hậu lạnh
và giảm 5 % CHO NHỮNG VÙNG CÓ KHÍ HẬU NÓNG. Ở ta năng lượng do lipit
trước mắt cần phấn đấu đạt 10-12 % tổng số năng lượng và khi có điều
kiện tăng lên 15-18 % và vì dân ta ở xứ nóng không quen ăn nhiều chất
béo
Cho nên không nên vượt quá 20% tổng số năng lượng.
b) Cân đối về protein: Ngoài tương quan với tổng số năng lượng
như đã nói ở trên, trong thành phần protein cần có đủ axit amin cần
thiết ở tỷ lệ cân đối thích hợp.
Do các protein nguồn gốc động vật và thực vật khác nhau về chất
lượng nên người ta hay dùng tỷ lệ % protein nguồn gốc động vật trên tổng
số protein để đánh giá mặt cân đối này. Trước đây nhiều tài liệu cho
rằng lượng protein nguồn gốc động vật nên đạt 50-60% tổng số protein và
không nên thấp hơn 30 %. Gần đây nhiều tác giả cho rằng đối với người
trưởng thành một tỷ lệ protein động vật vào khoảng 25-30 % tổng số
protein là thích hợp còn đối với trẻ em tỷ lệ này nên cao hơn.
c) Cân đối về lipit
Một mặt, đó à tỷ lệ năng lượng do lipit so với tổng số năng
lượng, mặt khác đó là yêu cầu cân đối giữa các axit béo trong khẩu phần,
trên thực tế biểu hiênẹ bằng tương quan giữa lipit nguồn gốc động vật
và thực vật.
Trong các mỡ động vật có nhiều axit béo no, trong các dầu thực
vật có nhiều axit béo chưa no. Các axit béo no gây tăng các lipoprotein
có tỷ trọng thấp (Low Density Lipoprotein LDL) vận chuyển cholesterol từ
máu tới các tổ chức VÀ CÓ THỂ TÍCH LŨY Ở các hành động mạch. Các axit
béo chưa no gây tăng các lipoprotein có tỷ trọng cao (High Density
Lipoprotein HDL) đưa cholesterol từ các mô đến gan đế thoái hóa.
Theo nhiều tác giả, trong chế độ ăn nên có 20-30% tổng số lipit
có nguồn gốc thực vật. Về tỷ lệ giữa các axit béo, trong khẩu phần nên
có 10% là các axit béo chưa no có nhiều nối kép, 30% axit béo no và 60%
axit béo chưa no có một nối kép ( axìt oleic ).
Khuynh hướng thay thế hoàn toàn mỡ động vật bằng các dầu thực vật
là không hợp lý bởi vì các sản phẩm oxy hóa (các peroxit) của các axit
béo chưa no là những chất có hại đối với cơ thể.
d) Cân đối về gluxit
Gluxit là thành phần cung cấp năng lượng quan trọng nhất của khẩu
phần. GLUXIT EO VAI TRÒ TIẾT KIỆM PROTEIN, Ở khẩu phần nghèo protein,
cung cấp đủ gluxit thì lượng ni tơ ra theo nước tiểu sẽ thấp nhất.
Trong các hạt ngũ cốc và hạt họ đậu, nguồn gluxit thường đi kèm
theo một lượng tương ứng các vitamin nhóm B, nhất là B1 cần thiết cho
chuyển hóa gluxit. Các loại đường ngọt, gạo bột xay xát quá trắng thường
thiểu B1. Mặt khác trong các loại rau quả, khoai củ có nhiều xenluloza
có giá trị nhất, ở ÐÂY CHÚNG THƯỜNG ÐI kèm theo những chất pectin là
những chất chỉ có trong rau quả. Pectin ức chế CÁC HOẠT ÐỘNG GÂY THỐI Ở
ruột và như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động các vi khuẩn có
ích. Cân đối giữa sacaroza và fructoza cũng có ý nghĩa trong PHÒNG BỆNH
XƠ MỠ ÐỘNG MẠCH. VÌ THẾ Ở KHẨU phần có nhiều sacaroza phải có một lượng
quả thích đáng.
Chúng ta cần nhớ rằng các yêu cầu cân đối nói trên chỉ được xét đến khi khẩu phần đảm bảo năng lượng.
e) Cân đối về các vitamin:
Vitamin tham gia vào nhiều chức phận chuyển hoá quan trọng của cơ
thể, vì vậy nhu cầu vitamin phụ thuộc vào cơ cấu các thành phần dinh
dưỡng khác trong khẩu phần. Mấy điểm sau đây đáng chú ý nhất:
CÁC VITAMIN NHÓM B cần thiết cho chuyển hóa gluxit, do đó nhu cầu
của chung thường tính THEO MỨC NHIỆT LƯỢNG CỬA KHẨU PHẦN. THEO TỔ CHỨC Y
tế thế giới ( FAO/OMS) cứ 1000 Kcalo của khấu phần cần có 0,4 mg
vitamin B1, 0,55 mg B2, 6,6 đương lượng naxin. Tình trạng gạo xát trắng
quá làm mất nhiều vitamin B1 là mối đe dọa gây ra nhiều BỆNH TÊ PHÙ Ở
nhiều nơi hiện nay.
Chế độ ăn có nhiều chất bốc làm tăng nhu cấu về vitamin E
(TOEOFEROL) LÀ CHẤT chống oxy hóa của các chất béo tự nhiên, ngăn ngừa
hiện tượng peroxit hóa các lipit. Các loại dầu thực vật dầu ngô, dầu đậu
tương ) có nhiều tocoferol, ngoài ra các loại hạt náy mầm (mầm ngô, mầm
lúa mỹ, giá đậu) cũng là nguồn tocoferol tốt.
- Cung cấp đầy đủ, protein là điều kiện cần cho hoạt động bình
thường CỦA NHIỀU VITAMIN. ĐỐI VỚI VITAMIN A hàm lượng protein trong khẩu
phần vừa phải tạo điều KIỆN CHO TÍCH LŨY VITAMIN A trong gan nhưng khi
tăng lượng protein lên tới 30-40% thì SỬ DỤNG VITAMIN A đăng lên do đó
tạo điều kiện xuất hiện sớm các biểu hiện thiếu vitamin A. Ngược lại,
khẩu phần nghèo protein thì các biểu hiện thiếu vitamin A SẼ KÉO DÀI. VÌ
VẬY KHI DÙNG CÁC THỨC ĂN GIÀU protein như sữa gầy cho trẻ em suy dinh
dưỡng phải cho thêm vitamin A CŨNG NHƯ KHI ÐIỀU TRỊ BỆNH THIẾU VITAMIN A
PHẢI KÈM THEO ÐĂNG PROTEIN THÍCH ÐÁNG.
g) Cân đối về chất khoáng:
Các hoạt động chuyển hóa trong cơ thể được tiến hành bình thường
là nhờ tính ổn định của môi trường bên trong cơ thể. cân bằng toan kiềm
để DUY TRÌ TÍNH ỔN ÐỊNH ÐÓ .
ở các loại thức ăn mà trong thành phần có các yếu tố kiềm ( các
cation) như Ca, Mg, K... chiếm ưu thế, người ta GỌI LÀ CÁC THỨC ĂN GÂY
KIỀM, NGƯỢC LẠI Ở một số thức ăn khác, các yếu tố toan (các anion) như
Cl, P, S... chiếm ưu thế người ta gọi là các thức ăn gây toan. Nhìn
chung, các thức ăn nguồn gốc thực vật (trừ ngũ cốc) là thức ăn gây kiềm,
các thức ăn nguồn gốc động vật (trừ sữa) là các thức ăn gây toan. Chế
độ ăn hợp lý nên có ưu thế kiềm. Tương quan giữa các chất khoáng trong
khẩu phần cũng cần được chú ý. Người ta thấy trong khẩu phần được hấp
thu tốt khi tỷ lệ CA/P lớn hơn 0,5 và có đủ vitamin D. Tỷ số Ca/mg trong
khẩu phần nên là 1/0,6. Các vi yếu tố giữ vai trò quan trọng trong bệnh
sinh nhiều bệnh địa phương như bướu cổ, sâu răng, nhiễm độc fluo...
Người ta đã thấy mối quan hệ (tương hỗ hay tương phản) giữa các yếu tố
trong khẩu phần có vai trò trong bệnh sinh các bệnh trên nhưng còn thiếu
cơ sở để đề ra các yêu cầu cân đối cụ thể.